Cái chết của Cố Thiếu Tá Biệt Động Quân
TRẦN Đ̀NH TỰ

Trong quân sử của cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài từ 1954-1975, có khá nhiều
những chiến công hiển hách của những đơn vị QLVNCH hay của từng cá nhân,
người lính VNCH từ cấp Chỉ huy đến hàng binh sĩ. Hai mươi mốt năm, cuộc
chiến đấu của người Miền Nam chống trả và ngăn chặn từng đợt xâm lăng từ
miền Bắc Việt Nam, người anh em cùng chung huyết thống, cùng mang ḍng máu
Lạc Hồng, nhưng đă đánh mất t́nh người. – U mê với chủ thuyết không tưởng
Cộng Sản, bằng vỏ khoác “thế giới Đại Đồng”, thực ra là sự tàn bạo, dă man
và đê tiện mới chính là điều căn bản của bọn người man rợ đó. Và, đau đớn
biết bao, từ thế hệ này đến thế hệ khác thanh niên Miền Nam cùng nhau gia
nhập quân ngũ, dắt d́u nhau đi vào nơi lửa đạn, để truy diệt kẻ xâm lược.
Từng gia đ́nh từng cá nhân mặc nhiên chấp nhận mọi thua thiệt, mọi thương
đau để đem sức ḿnh đóng góp vào cuộc chiến ngăn chặn ấy. Những mong có
một ngày những kẻ gieo rắc tai ương cho dân tộc sẽ nhận ra sự phi lư, nhận
ra thân phận ḿnh đang dùng súng đạn để tương tàn, nhận ch́m tổ quốc, dân
tộc vào vũng lầy của máu, của thịt da chính ḿnh và lúc đó họ cũng sẽ nhận
ra được chính cuộc chiến tranh đă hủy hoại tàn nhẫn quê hương, chung quy
cũng chỉ là ước muốn áp đặt một chủ nghĩa chính trị không giống ai và
chính cuộc chiến chỉ là phục vụ cho thế lực và mưu đồ của ngoại nhân. Và,
lúc đó họ sẽ từ bỏ giấc mộng điên cuồng, hoặc cả hai bên cùng gác súng,
trở về với chính ḿnh, cùng chung lo gây dựng lại những đổ nát, hoang tàn,
chữa trị những vết thương đang hoá ḍi trên thân thể Mẹ Già Việt Nam.
Thật
phũ phàng và cay đắng, tất cả đă trở thành ác mộng, đă thắt cổ chết treo
cho mọi mơ ước, mọi cầu mong của dân Việt. Cuộc chiến cũng chấm dứt. Tiếng
súng đă thôi không c̣n vang vọng bên tai mọi người, nhưng chính ngay sau
lúc tiếng súng vừa im lặng trên lănh thổ, th́ cũng là lúc bạo tàn, tủi
nhục và nước mắt được đong đầy, ngập khắp lănh thổ Miền Nam, đâu đâu cũng
chỉ c̣n là tiếng than tiếng khóc, nỗi thống khổ nặng như đá tảng đè trên
thân xác mỗi người, lù lù trong mỗi gia đ́nh như một tiền oan nghiệp
chướng. Những người lính VNCH phải buông súng trong tức tưởi, nghẹn uất,
có người c̣n ngơ ngác tự hỏi: Lẽ nào ta lại quy hàng? Trong tất cả những
bài học quân sự, tất cả mọi binh thư, binh thuyết và những huấn lệnh của
thượng cấp, người lính chưa hề được nghe một lời nào nhắc đến sự quy hàng
– Thế mà bây giờ họ laị được lệnh gác súng – người lính không ngẩn ngơ,
đau uất sao được.- Tôi muốn dùng chữ LÍNH ở đây để chỉ chung cho QLVNCH,
không dành cho riêng một thứ cấp nào của quân đội chúng ta. Trong sự ngỡ
ngàng, sự uất nghẹn ấy, đă có rất nhiều quân nhân VNCH tuẫn tiết, chẳng
riêng năm vị tướng, thậm chí cả những người lính cũng chọn cái chết để tạ
lỗi với quê hương, với dân tộc v́ họ cảm nhận ḿnh đă không tṛn trách
nhiệm, không tṛn bổn phận của người bảo vệ tự do và độc lập, như trường
hợp của một Hạ Sĩ Biệt Động Quân nhất định không cởi bỏ binh phục, đă cho
nổ trái lựu đạn, để thân xác ḿnh tan nát, trước sự bàng hoàng, kinh hăi
và kính phục của hai người đồng đội và dân chúng trước cửa tiệm phở gà
đường Trương Tấn Bửu; hay câu chuyện đầy nước mắt và bi hùng của năm người
lính Nhảy Dù, sau khi nhận được lệnh buông súng, họ đă bàn với nhau, uống
những giọt cà-phê cuối đựng trong bi-đông, hút điếu thuốc Quân Tiếp Vụ
chót, ai nấy xé bao thuốc lấy cái h́nh người lính trong tư thế tác chiến,
dưới bóng quốc kỳ, bỏ vào túi áo ngực ḿnh. Sau chót, họ – năm người chiến
binh Mũ Đỏ- dơng dạc nói với những người dân cư ngụ chung quanh khu Hồ Tắm
Cộng Hoà, ngă ba Ông Tạ: “Xin vĩnh biệt bà con, chúc tất cả bà con ở
lại mạnh khoẻ và may mắn – xin bà con dang xa chúng thôi để tránh sự nguy
hiểm”. Mọi người c̣n đang ngơ ngác, cứ tưởng anh em Mũ Đỏ nói họ tránh
ra để không bị nguy hiểm do đạn giao tranh. Chẳng dè, năm người lính Dù đă
ngồi xuống thành ṿng tṛn, lấy từ ba lô ra lá Quốc Kỳ VNCH, trải trên mặt
đất. Cả năm người cùng dang rộng ṿng tay, rút chốt trái lựu đạn, bỏ trên
mặt lá cờ và cùng nhau gục xuống để cho tiếng nổ đanh gọn, kết thúc cuộc
sống của họ – Thịt da tan nát cùng lá cờ. Nơi họ tự ải chỉ cách nhà mẹ tôi
khoảng chừng 150 mét. Người dân đă khóc thưong họ, nhưng chỉ dám khóc
thầm, lúc nầy kẻ thù đă ngự trị toàn Miền Nam.
Đồng một lúc với sự đầu hàng ép buộc sự buông súng không thuận ư, cũng là
lúc kẻ thù – Cộng quân – bắt đầu sự trả thù, khởi sự báo oán trên sinh
mệnh người lính VNCH và trên sự an toàn, hạnh phúc của dân chúng Miền Nam.
Tội ác của Cộng Sản Việt Nam sổ sách nào ghi cho đủ, kể lại bao lâu cho
hết; cũng như gương bất khuất của người lính, nhắc lại cho nhau nghe,
giương danh tên tuổi họ cho mai hậu, tưởng chẳng bao giờ thừa dư, mà chúng
ta cần phải nêu lại để tự nhắc với ḷng ḿnh niềm oán hận, nỗi thù c̣n hằn
c̣n nguyên một khối kết đặc trong hồn chúng ta, khó ḷng xoá nhoà, gột bỏ
v́ kẻ thù ta c̣n đấy, vẫn đang hàng ngày phủ chụp bàn tay vô luân của
chúng trên quê hương, trên từng ly vuông da thịt người dân. Gưong anh dũng
hy sinh, thà chết nhất định không hàng giặc trong những ngày cuối cùng của
Miền Nam tự do, diễn ra khắp nơi, trên bốn vùng chiến thuật và trong tất
cả mọi quân binh chủng chủ lực quân, lực lượng bán quân sự, thậm chí ngay
cả anh Nhân Dân Tự Vệ sinh sống ở Cống Bà Xếp (Hoà Hưng) đă treo cổ chết
nơi sau nhà để khỏi bị giặc hành hạ.
Ở
đây trong bài viết này, tôi chỉ xin được đơn cử một gương can đảm bất
khuất của một quân nhân BĐQ, đồng thời cũng chính anh hứng chịu sự trả
thù, và, ngay cả gia đ́nh anh – cha mẹ, vợ con anh cũng không thoát, đă bị
hành hạ tinh thần liên tục và đê tiện. Sự trả thù đáng được đem ra gọi là
điển h́nh theo quan niệm của giặc Cộng. Anh là Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự, Tiểu
đoàn trưởng Tiểu Đoàn 38 – Liên Đoàn 32 BĐQ (Liên Đoàn 5 BĐQ trước kia).
Trước khi kể lại sự hy sinh của chiến hữu BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ, xin cho phép
tôi được ngưọc về dĩ văng để viết vài điều tôi được biết về anh theo lời
thuật của thân mẫu anh.
Trần
Đ́nh Tự, sinh năm 1943 ở Hà Nội, thuở nhỏ học Tiểu học Ngô Sĩ Liên (phố
Hàm Long), nhà lại ở khá xa, măi tận phố hàng Than, nhưng anh rất chịu khó
lẽo đẽo đi bộ đến trường không cần ai phải đưa đón. Thân phụ Tự là công
chức, làm việc trong Toà Thị Chính thành phố. Thân mẫu là giáo viên, bà
dạy tại trường Tiểu học ngoại ô Hà Nội, và có lẽ cuộc đời, sinh hoạt hàng
ngày của Trần Đ́nh Tự là do sự giáo dục, ảnh hưởng sâu đậm của mẹ ḿnh.
Trầm lặng và ngăn nắp là bản tính của Tự. 1954 được 11 tuổi, Tự được cha
mẹ đem vào Miền Nam theo cuộc di cư vĩ đại. Tại Sàig̣n, tự học Trung học
nơi ngôi trường có truyền thống giáo dục tốt đẹp và kỹ lưỡng v́ trước đó
trường thuộc hệ thống quản trị và chương tŕnh dạy dỗ do Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam: Trường Hồ Ngọc Cẩn.
Cũng
theo thân mẫu anh nói lại, ngay từ lúc mới biết làm toán, Tự đă tỏ ra khá
giỏi và mỗi năm mỗi lớp, ở môn toán, Tự là số 1 không ai tranh được. Các
môn học khác, Tự rất dốt, đủ đỉểm trung b́nh là may. Cả ngày chỉ cặm cụi
làm toán, ngoài ra các môn khác học để đủ điểm mà thôi. Sau khi tốt nghiệp
bậc Trung học, đậu bằng Tú Tài toàn phần ban toán, lẽ ra Tự sẽ tiếp tục ở
Đại học nào đó do anh chọn và v́ những lư do chưa đến tuổi nhập ngũ, trong
gia đ́nh đă có hai người anh đang phục vụ trong những cơ quan trực thuộc
quy chế quân đội, dù có đến tuổi, Tự vẫn c̣n được huởng trường hợp hoăn
dịch để trau dồi học vấn. Thế nhưng, Trần Đ́nh Tự đă làm đơn, đem đến Bộ
Quốc Pḥng để nộp xin t́nh nguyện được gia nhập quân đội. Anh xin đi học
khoá 14 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Điều này đă tạo ra không khí trầm uất,
phiền ḷng trong gia đ́nh Tự, thời gian hai ba tháng. Cha mẹ Tự mong mỏi
ít ra Tự cũng phải đến Đại học vài năm, sau đó sẽ tính nhưng Trần Đ́nh Tự
đă làm ngược lại.
Măn
khoá, Trần Đ́nh Tự được bổ sung tài nguyên
Sĩ Quan cho Trung Tâm Huấn
Luyện Chi Lăng ở miền Tây Nam phần. Sau sáu tháng Tự lại một lần nữa ít
nhiều gây ưu phiền cho gia đ́nh. Anh làm đơn xin t́nh nguyện được phục vụ
trong binh chủng BĐQ. Anh được toại nguyện. Ngày tôi về tŕnh diện TĐ 33
BĐQ ở Biên Hoà, Tự đă có mặt tại đơn vị này từ bao giờ, v́ tôi nhập ngũ
sau Tự ba khoá. Tôi học khoá 17 STQB/TĐ. Thật ra, những ngày đầu về đơn
vị, cũng là đầu đời nữa, đơn vị tác chiến của một binh chủng, dường như có
nhiều người cảm thấy e ngại khi nhắc đến. Cuộc sống của binh chủng quá
nhiều vất vả, hiểm nguy. Tôi cũng thấy rụt rè, lo âu, thái độ luôn luôn
băn khoăn tự hỏi ḿnh sẽ phải làm ǵ ở những ngày sắp tới, chẳng những âm
thầm quan sát từng cử chỉ, đi đứng của anh em HSQ, binh sĩ nhất là mọi
động tác của các vị Sĩ Quan, tôi đều ghi nhận để học lóm hầu có thể xài
cho ḿnh sau này.
Lần
đầu tôi gặp Trần Đ́nh Tự, tôi chào anh theo quân cách, Tự không đáp lại,
mặt nghênh nghênh và cổ th́ quẹo qua một bên. Tôi tức uất người, nhủ thầm: tên Thiếu Úy này lối, nghênh ngang và cao ngạo. Tôi gh́m trong đầu và
luôn luôn quẩn quanh với thành kiến Trần Đ́nh Tự khinh người, dĩ nhiên,
tôi cũng cảm thấy không ưa Tự…
Tôi
đem chuyện này kể lại với Thiếu Úy Lê Kỳ Ngộ, vị
Sĩ Quan đàn anh và là
thầy dạy tôi trong trường SQTB/TĐ, nay cũng phục vụ trong binh chủng BĐQ,
anh ở ĐĐ3/33. Tôi than phiền với anh Ngộ về thái độ ngạo mạn của Tự. Anh
Ngộ cười ngất: “Đ. ơi, tội nghiệp nó, không phải Tự nó nghênh hay kênh ǵ
đâu, niễng niễng là có tật đấy, có lẽ hồi c̣n nhỏ nó bị gió máy làm vẹo
cổ. Bản tính Tự trầm lặng chứ không phải nó ngạo mạn. Tôi biết rơ tính nết
hắn nhiều lắm.” Anh Ngộ c̣n khuyên tôi: “Ráng hoà nhập với đời sống
quân ngũ, lâu rồi sẽ quen. Có thể Tự và Đ. sẽ thân nhau hơn người khác
không chừng”.
Thời
gian lần lượt qua đi từng tháng, từng năm, chúng tôi sống phục vụ trong
cùng đơn vị lần lượt đă đến vị chỉ huy thứ tư. Ông Tiểu đoàn trưởng thứ tư
của chúng tôi ở TĐ33/BĐQ là Thiếu Tá Tử Thần. Có nhiều đổi thay trong đơn
vị, nhiều Sĩ Quan đồng đội đă ra đi, người th́ sau chuyến hành quân đă
không chịu về với anh em, người th́ chuyển đến đơn vị mới. Lúc này Tự là
ĐĐT/ĐĐ3BĐQ và tôi coi ĐĐ4. Hai đứa chúng tôi đă là bạn thân, đă cùng nhau
dong ruổi trên các miền lửa đạn. Và, năm 1971 trong chiến dịch hành quân
ngoại biên, QLVNCH mở những cuộc hành quân sang Campuchia truy diệt và
tiêu hủy những căn cứ Cộng Sản VN. Tháng 2-1971, trong cuộc hành quân trực
thăng vận xuống căn cứ của SĐ7CS, trong lúc giao tranh Tự bị trúng mảnh
đạn pháo vào đầu, anh được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hoà, rời khỏi
TĐ33BĐQ từ đó.
Mùa
hè 1972, Cộng Sản Bắc Việt ồ ạt dùng đại quân, đại pháo tấn công cường tập
trên khắp các mặt trận, nặng nhất lúc đó là mặt trận Quảng Trị, hàng chục
Sư đoàn chính quy vượt sông Bến Hải, vượt biên giới Việt Lào, đồng loạt
tấn công thế như cuồng lưu, như biển động. Do đó Bộ TTM/QLVNCH đă điều
động LĐ5BĐQ không vận ra tăng cường cho mặt trận QK1. Cũng lại tháng
2-1972, SĐ308 Tổng Trừ Bị CS, xe tăng, đại pháo tấn công điên cuồng
LĐ5BĐQ, sự chênh lệch quá đáng về lực lượng đă khiến LĐ5BĐQ phải vừa đánh
vừa lui dần về phía sau để chờ sự tăng viện, nhưng đến khu vực cầu Trường
Phước, đoạn Quốc Lộ I cũ, LĐ5BĐQ bị lọt ổ phục kích của một Trung đoàn VC
tăng cường đơn vị pháo. TĐ38 BĐQ do Thiếu Tá Vũ Đ́nh Khang chỉ huy, Trần
Đ́nh Tự – Sĩ Quan Hành quân (Trưởng ban 3) nhận lệnh của Trung Tá Liên
Đoàn Trưởng Ngô Minh Hồng phải đánh cản hậu, bằng mọi cách phải chặn đứng
sức tiến cuồng bạo của địch để LĐ rút qua sông (gồm TĐ30, TĐ33 và BCH/LĐ).
Tiểu đoàn 38BĐQ đă hoàn thành nhiệm vụ, riêng hai vị
Sĩ Quan đầu đàn của
đơn vị cũng hoàn thành trách nhiệm là ở lại sau cùng để “con cái” qua sông
an toàn và cuối cùng chính hai ông thẩm quyền: Vũ Đ́nh Khang, Trần Đ́nh Tự
lọt vào tay giặc trở thành tù binh. Lư do lăng xẹt: cả hai không biết bơi,
loay hoay cùng mấy người hộ tống đang “nghĩ kế” để vượt con rắn lục th́ bị
giặc đến cơng qua sông Bến Hải đem về trại tù Lạng Sơn.
1973
– Hiệp định Paris – ngưng bắn da beo, da cọp. Trao đổi tù binh, Trần Đ́nh
Tự lại trở về với gia đ́nh Mũ Nâu, gắn bó đời ḿnh với binh chủng BĐQ. Anh
được thăng cấp Thiếu Tá và được cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ33BĐQ thay thế
vị chỉ huy cũ, được điều động đi chỉ huy một đơn vị khác. Những ngày băo
lửa, cuồng lưu của bom đạn đă qua. Hiệp định đ́nh chiến đă kư kết, nhưng
vẫn chưa có ḥa b́nh. Giao tranh vẫn liên tục nơi này nơi kia. Liên đoàn
5BĐQ đă cải danh thành LĐ32BĐQ, cũng đă và đang cùng các LĐ/BĐQ khác bảo
vệ tỉnh B́nh Long. Mặt trận An Lộc, vẫn nặng nề trong âm mưu xâm lược.
Tháng 3-1975, trên toàn lănh thổ VNCH tự nhiên vỡ ra từng mảng sau khi Ban
Mê Thuột thất thủ. Hết nơi này “di tản chiến thuật” lại đến chỗ kia “tái
phối trí”. LĐ32BĐQ lại một lần nữa theo lệnh, rời bỏ An Lộc để về tại phối
trí, thiết lập tuyến pḥng thủ bảo vệ tầm xa cho thủ đô Sàig̣n, tuyến bố
trí kéo dài một ṿng cung từ Khiêm Hanh (Bầu Đồn) Tây Ninh kéo dài qua con
Suối Cao-G̣ Dầu, tạo thành một cái đê chặn đứng cơn nước lũ Cộng Săn từ
các mật khu Dương Minh Châu, Bời Lời, Bến Cát (Tam Giác Sắt) không cho con
lũ này chảy về Sàig̣n. Áp lực có nặng nề, cường độ giao tranh ngày càng
cao, đạn pháo giă gạo trên đầu mỗi giờ mỗi tăng. Những người lính Mũ Nâu
LĐ32BĐQ dưới sự chỉ huy điềm tĩnh và gan ĺ của Thuận Thiên (Trung Tá Lê
Bảo Toàn) vẫn giữ vững pḥng tuyến, chưa có khúc ruột nào bị cắt đứt hay
chọc thủng và dĩ nhiên TĐ38 cùng các đơn vị bạn TĐ30, TĐ33, Đại Đội Trinh
Sát 5BĐQ (do Cường Dương Tướng Quân Đỗ Minh Hưng chỉ huy – không hiểu tôi
nhớ có chính xác không, nếu sai xin tha thứ). Hàng ngày, vẫn chia nhau
“luộc” những con cua đồng, bộ binh chúng lần ṃ vào hàng rào pḥng thủ th́
nằm yên tại đấy, không trở ra được nữa v́ đă ăn no kẹo đồng.
Thế
nhưng vận nước đă đến lúc phải chịu đau thương, thân phận người lính VNCH
có chiến đấu dũng mănh như sư tử đến lúc bị bức bách phải quy hàng, cũng
đành phải nhẫn nhục buông súng. 11 giờ ngày 30 tháng 4. 1975 tại Trung Tâm
Hành Quân của Liên Đoàn, Thuận Thiên nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân
Đoàn:”Hăy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến
bàn giao khu vực”. Trung Tá Lê Bảo Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp
máy truyền tin rớt xuống đầu người lính đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật
xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Hai mươi năm phục vụ quân ngũ
– 19 năm dong ruổi vào ra vùng đạn bom, 5 lần bị thương lần nào cũng thập
tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy đau như lúc này. Ông nghẹt thở,
buốt trong óc tưởng như ai đang đóng ngập cái đinh 10 phân vào đầu, có lẽ
lấy kéo cắt ruột cũng chỉ đau đến thế.
Ông
lịm đi, người Sĩ Quan Hành quân phải gọi khẽ:
“Trung Tá!”. Ông gượng đau
để lấy lại bản lănh. Sau cú “sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đă điềm tĩnh trở
lại. Ông cầm máy gọi lần lượt từng Trưởng: TĐ30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc
Khoản, TĐ33 Thiếu Tá Đinh Trọng Cường, TĐ38 Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự. Cả ba
đă đáp nhận. Trung Tá Toàn chậm răi, ông cố giữ cho tiếng nói của ḿnh,
với âm lượng đều đặn như mọi ngày:
- Các anh vặn nhỏ máy, tôi thông báo lệnh quan trọng. - Im lặng một giây,
ông nói tiếp - Các anh ra lệnh cho “con cái” buông súng – Tổng Thống Dương
Văn Minh đầu hàng rồi. Sẽ có đại diện của “phe họ” đến để bàn giao. Cám ơn
các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng, các Sĩ Quan trong Liên Đoàn. Tôi cũng
đặc biệt cám ơn các anh em Hạ Sĩ Quan, binh sĩ. Chúng ta đă bấy lâu công
tác, sống chết với nhau. Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đă chấm dứt, tôi
không c̣n trách nhiệm với Liên Đoàn nữa. Thân chào tất cả anh em trong
Liên Đoàn, lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên Đoàn Trưởng là yêu
cầu các anh b́nh tĩnh và chúc tất cả may mắn.
Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời Trần Đ́nh Tự đă cưỡng lệnh
cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung Tá LĐT,
anh quay qua Đại Úy Xường – Tiểu Đoàn Phó TĐ38BĐQ
- Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh ḿnh phải buông súng đầu hàng. Đây là lần
chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh: anh nói lại cho các Đại Đội Trưởng và
thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không
đầu hàng, anh hiểu cho. Tôi không khi nào để chịu lọt vào tay tụi nó lần
nữa.
Tiếp đó, anh cho tập trung BCH, Trung đội Thám Báo nói với họ là đă có
lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, c̣n ai muốn ở
lại chiến đấu với anh đến giờ chót th́ đứng riêng một bên. Lần lượt số
người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ. Trần Đ́nh Tự đưa tay chào Đại
Úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi dẫn những người quyết tử tiến
vào khu vực vườn khoai ḿ để tiếp tục “ăn thua” với địch. Kết cục, cuộc
chiến đấu cũng phải chấm dứt. Tự và anh em hết đạn, địch tràn ngập, bắt
tất cả những người c̣n sống (9 người ) giải về sân trường Tiểu Học gần
đấy.
Tên
chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ
ngay mặt Tự thoá mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (lon Thiếu Tá may
dính trên cổ áo). Tự đứng yên nhất định không chịu, tên VC rít lên: “đến
lúc này mà mày c̣n bướng hả, lũ uống máu, bọn tay sai, những thằng ác ôn.
Mày có làm theo lệnh của ông không th́ bảo. Nhân danh cách mạng ông ra
lệnh cho mày cởi áo quần ngụy và nằm xuống. Chúng mày đă đầu hàng, nghe rơ
chưa!”
Tự cười đểu:
- Ai
đầu hàng, nhưng tao th́ không. Mày nghe đây. Chúng mày mới là lũ ác ôn,
chúng mày mới đích thực là lũ tay sai, lũ vong thân chó má. Bọn mày là
những tên tội đồ của dân tộc VN, hiểu không? Một lũ đê tiện!
Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát mặt Tự, giơ tay giật mạnh,
bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm
Tự đeo bên hông. Nó đâm thật mạnh vào bụng Trần Đ́nh Tự, rọc mạnh xuống
phía dưới. Ruột Tự ḷi tuột ra ngoài. Chưa hả cơn, nó c̣n ngoáy mạnh mũi
dao vào tận trong bụng Tự. Anh hét tiếng bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống, oằn ḿnh giật từng cơn trong vũng máu.
Đồng thời với hành động dă thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nh́n Tự rồi nói
gọn: “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là ác ôn cả đấy!”
Tám quân nhân c̣n lại, bị dẫn ra phía sau trường để được bắn xối xả mấy
loạt AK47. Xác họ bị quăng xuống các đ́a gần đó. Bọn VC dẫn nhau bỏ đi.
Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự, bị giặc Cộng mổ bụng chết được hơn một tuần, gia
đ́nh ở Sàig̣n nhận được tin. Vợ anh t́m đến nơi anh bị hành h́nh để xin
xác chồng. Đau đớn cho chị, xác chồng đă chẳng thấy, lại c̣n bị những tên
VC tại địa phương lớn tiếng sỉ nhục vong linh chồng ḿnh. Chị đă quay về
Sàig̣n sau câu trả lời gọn lỏn của chúng: “Chồng chị là tên ngụy ác ôn,
đàn áp bóc lột nhân dân, nợ máu quá nhiều, nhân dân nổi giận trừng trị.
Cách mạng rất khoan dung không trả thù như vậy. Chị đi t́m nhân dân mà xin
các anh ấy!”
Chưa
hết. Sự trả thù đê hèn vẫn đeo đuổi theo từng cá nhân người lính VNCH,
từng gia đ́nh mỗi người. Năm 1985, tôi được thả về từ trại tù VC. Sau vài
tháng tôi đến nhà Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự ở đường Dương Công Trừng (Thị
Nghè) thăm ba mẹ Tự. Đến nơi được biết thân phụ anh phần uất hận, phần
thương con – tất cả con trai của cụ, hai người anh Tự cũng bị tập trung
vào trại tù Cộng Sản, Cụ đă lâm trọng bệnh qua đời năm 1975. Mẹ của Tự, bà
cụ ở lại chịu đủ điều cay đắng, thương con, Cụ lập bàn thờ Trần Đ́nh Tự
bên cạnh bàn thờ chồng. Tấm ảnh thờ Tự chụp lúc vừa được vinh thăng Thiếu
Tá, nên anh mặc quân phục. Chính v́ tấm ảnh thờ mà cách vài ngày mấy tên
Cộng Sản địa phương như Công An, Ủy Ban Nhân Dân ḷ ṃ đến để buông những
lời lẽ mất dạy, vô luân, đốn mạt nhưng lại cao giọng đạo đức rẻ tiền.
- Cách mạng rất phân minh, rành rẽ mọi điều, t́nh tự dân tộc đều đâu ra
đấy. Tội ai người ấy chịu. Bà thờ chồng, thờ con trai điều này đáng biểu
dương, nhưng tấm ảnh tên ác ôn kia th́ không được để đấy, bà phải cất đi,
lấy ảnh khác mà để.
Thân mẫu Tự cố dằn cơn tức uất:
-
Các ông thông cảm, Ở đâu th́ theo đó, con tôi đă chết thảm, xác không có
để mang về. Nó chẳng c̣n cái ảnh nào, chỉ có một, các ông để cho tôi thờ
nó. Hàng ngày được nh́n thấy chồng, con vẫn ở bên ḿnh.
Tên
VC trả lời:
-
Nếu không có cái khác th́ cất đi hoặc để linh động, Cách Mạng nhất trí cho
bà để cái ảnh nhưng lấy mực bôi cái lon lá và bộ quần áo ngụy đi.
Mẹ Tự nhất định không chịu, cứ để tấm ảnh trên bàn thờ cho đến một lần,
chúng nó đem bà cụ ra tổ dân phố để “đấu tranh xây dựng”. Bà cụ nổi
đoá
nói tướng lên:
-
“Cách mạng khoan hồng”, “Cách mạng độ lượng” cái ǵ? Bác Hồ có chỉ dạy
các anh ép người dân đến mức này không? Hai năm liền chồng chết, con chết
thảm, con đi tù, các ông muốn tôi phải thế nào hay là các ông giúp tôi
chết phứt đi cho rồi. Tôi theo chồng theo con là khỏi khổ!”
Có lẽ v́ thấy ép quá, không có lợi khi sự việc đă gây xầm x́ trong khu
vực, bọn VC địa phương lờ dần đi, không ghé nhà Tự để mè nheo, quấy rầy bà
cụ nữa. Tự được yên thân trên bàn thờ, nhưng mẹ ḿnh lại vĩnh viễn không
được thấy con, dù là nh́n tấm ảnh: Cụ đă bị mù loà, sống lủi thủi trong
bóng đêm của quăng đời c̣n lại với mấy đứa cháu nội.
THAY LỜI KẾT:
Câu
chuyện về sự trả thù đê hèn và dă man của bè lũ Cộng Sản Việt Nam là hoàn
toàn sự thật. Và dĩ nhiên sự trả thù, cung cách đối xử của Cộng Sản dành
cho Quân nhân QLVNCH và gia đ́nh hoàn toàn do chính sách, kế hoạch đă được
chỉ thị từ Trung Ương xuống, nhưng nếu có ai hỏi đến chúng nó lại bẻo mép
đổ vấy cho địa phưong, cho nhân dân, cho cá nhân nào đó nóng giận gây ra.
Sự
đền nợ nước của Trần Đ́nh Tự tôi kể lại hôm nay là do lời thuật lại của
Đại Úy Xường – Tiểu Đoàn Phó TĐ38BĐQ. Anh cũng đă hy sinh trong trại tù CS
Nghệ Tĩnh năm 1979. Tôi gặp Xường ở trại 8 Yên Bái năm 1977. Anh bị VC bóp
cổ chết trong ngục thất v́ sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt. Xường
xuất thân từ khoá 22A Vơ Bị QGVN.
Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của Cố Thiếu Tá Trần Đ́nh
Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Tự. Cùng bị tàn sát sáng
30-4-1975 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc – tên anh
ta – bị thương giả chết chờ cho VC đi xa rồi ráng ḅ vào nhà dân, được dấu
diếm băng bó, rồi thuê xe lam chở về Sàig̣n.
Thoáng đấy mà đă 35 năm, dân Việt Nam sống trong ḱm kẹp, đè nén của Cộng
Sản. Người lính VNCH ở quê nhà chịu biết bao nỗi ê chề, cay đắng. Tự chết
35 năm, thân mẫu của anh có c̣n để giữ tấm ảnh của anh trên bàn thờ? Vợ
con anh nay ở phương nào? V́ năm 1976 vợ đem con về nương náu bên ngoại.
Xin cho Thiếu Tá BĐQ TRẦN Đ̀NH TỰ một nén hương truy niệm.
Mũ Nâu THIÊN LÔI kể lại