Nhạc sĩ Anh Bằng
Doan Nhat Tao

Anh Bằng (sinh năm 1925) là một nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam với số
lượng sáng tác khoảng 650 t́nh khúc để lại cho đời. Ông là một trong những
nhạc sĩ tiêu biểu của ḍng nhạc hải ngoại, là người đă sáng lập Trung tâm
Asia vào năm 1981.
Anh Bằng tên thật Trần An Bường, sinh năm 1925 tại thị tứ Điền Hộ, nay
thuộc xă Nga Điền, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa giáp giới tỉnh Ninh B́nh,
cách Hà Nội khoảng 100 cây số về phía Nam. Năm 1935 ông xa gia đ́nh để học
Tiểu chủng viện Ba Làng tại huyện Tĩnh Gia thuộc tỉnh Thanh Hóa, sau đó
ông lại tiếp tục theo học trung học ở Hà Nội trước khi theo gia đ́nh di cư
vào Nam năm 1954 và sinh sống ở Sài G̣n cho đến năm 1975.
Trong thời kỳ 1954 - 1975, nhạc sĩ Anh Bằng rất nổi tiếng với nhiều tác
phẩm sáng tác và phổ nhạc. Các tác phẩm như “Nỗi ḷng người đi” (đanh dấu
cuộc di cư vào Nam), “Nếu vắng anh” (phổ từ bài thơ “Cần thiết” của nhà
thơ Nguyên Sa), “Hoa học tṛ (Bây giờ c̣n nhớ hay không)”, “Người thợ săn
và đàn chim nhỏ”... đă được các ca sĩ Tuấn Ngọc, Ngọc Lan, Khánh Ly thể
hiện rất thành công.
Ông gia nhập Quân lực Việt Nam Cộng ḥa năm 1957 ngành Công binh sau
chuyển sang Nha Chiến tranh Tâm lư đến năm 1962 th́ giải ngũ. Cũng trong
thời gian trong quân đội, Anh Bằng sáng tác vở kịch Đứa con nuôi. Tác phẩm
này đoạt “Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc” thời Đệ nhất Cộng ḥa. Những
vở kịch khác do ông soạn tiếp theo nhau ra đời là Hoa Tàn Trên Đất Địch,
Lẽ Sống và Nát Tan. sau khi giải ngũ ông tiếp tục hoạt động trên đài
truyền thanh VTVN.
Năm 1975, Anh Bằng cùng gia đ́nh di tản sang Mỹ ở độ tuổi 50, và vẫn tiếp
tục hoạt động âm nhạc với Trung tâm sản xuất và phát hành băng nhạc
cassette Dạ Lan (1981 - 1990). Thời gian sau này ông cộng tác với Trung
tâm Asia. Thời kỳ tại hải ngoại, ông sáng tác nhiều ca khúc, đáng kể có
“Anh c̣n nợ em”, “Căn gác lưu đày”, “Chuyện giàn thiên lư”, “Khúc thụy
du”, “Kỳ diệu”, “Mai tôi đi”...
Khi nghe CD “Anh C̣n Yêu Em” tŕnh làng trong năm 2008 của Anh Bằng (phổ
thơ Phạm Thành Tài) cùng với Khúc Thụy Du (phổ thơ Du Tử Lê), chúng ta
thấy mélody qua ḍng nhạc của người nhạc sĩ từng trải mênh mang như sóng
nhưng cũng trỗi dậy căng tràn nhựa mới.
Người phụ trách nhạc yêu cầu Orchid Lâm Quỳnh cho biết “Anh C̣n Yêu Em” là
ca khúc top hit được yêu cầu liên miên trên truyền h́nh. Với lời thơ: “Anh
c̣n yêu em, Nụ hôn sim tím, áo nhàu qua đêm” “Anh c̣n yêu em, như rừng lửa
cháy, anh c̣n yêu em, như ngày xưa ấy, Anh c̣n yêu em, Lồng tim rạn vỡ,
anh c̣n yêu em, bờ vai mười sáu”, và “Bạch đàn thâu đêm, Thầm th́ tóc rủ,
Chiều xuống mờ sương, cửa đóng rèm buông”... “Buồm trăng giương cánh, khi
thủy triều lên, sóng xa êm đềm” “Anh c̣n yêu em - Chênh vênh mi buồn”,
mélody của ca khúc này bắt được bằng những rung động của lời thơ, như
chính Anh Bằng là người làm thơ, sống động như đó là nội dung cuộc sống
của ông.
Đồng thời c̣n có những bài hát khác cũng phổ từ những lời thơ như “Anh c̣n
yêu em, bờ vai 16” hay “Anh biết em đi chẳng trở về”, nghe âm điệu cứ như
là những ca khúc trẻ nào như của lứa tuổi mới lớn, 18 đôi mươi của ông từ
trên nửa thế kỷ trước “Nỗi Ḷng Người Đi”: “Tôi Xa Hà Nội năm lên 18, khi
vừa biết yêu...”. Nên CD “Anh C̣n Yêu Em” xuất hiện năm 2008, Anh Bằng như
trở lại thời mới lớn khi vừa mới biết yêu? Từ đấy, người thưởng ngoạn
tưởng như Anh Bằng sáng tác bởi chính cuộc sống lăng mạn rung cảm đắm say
của ông.
Cuộc đời của Anh Bằng đă trải dài ra, từ “những đồi sim” của thời làm bạn
cùng xóm làng với Hữu Loan (thập niên 1940), ở vùng cửa Thần Phù Thanh
Hóa, tới những đêm lắng nghe tiếng hàng bạch đàn gió lay, như tóc xơa ở
Quy Nhơn (1957 và thập niên 1960), qua những ca khúc sáng tác từ cảm nhận
khi sống bỡ ngỡ những năm đầu tỵ nạn, bát ngát đồi hoa tím ở thành phố nhỏ
dưới 5,000 dân ở Washington tới Quận Cam:
Rung cảm khi nhớ lại đồi ấu thơ, cánh buồm căng tuổi trẻ và chênh vênh ở
tuổi bất cứ nào khi nh́n nhau qua hàng mi buồn nuối tiếc - Chênh vênh như
gần như xa, lảo đảo v́ mất mát..
Theo nhà văn Trần Khánh Liễm: “Ba Làng có hai vườn thông thật đẹp và đầy
mơ mộng, mà những ai thích nhạc đều ra đó để lấy cảm hứng. Những buổi
chiều Chúa Nhật các tu sĩ của Tiểu Chủng Viện thường lên núi Thủi chơi,
nơi này có những đồi hoa sim trải dài cho tới sườn núi và tận cùng ra tới
biển với những tảng đá to lớn phía cạnh băi. Những đêm khuya khi trời đẹp
chỉ nghe tiếng sóng êm từ từ đổ, để ru hồn người vào giấc đông miên... C̣n
khi biển động th́... ôi thôi, sóng lớn như vỡ bờ!”.
Trong đời sống thực, Anh Bằng đă rời Sài G̣n trong chuyến bay từ Tân Sơn
Nhất vào ngày 29 Tháng Tư, cùng với vài người con, trong số đó có Thy Vân
vừa tuổi trăng tṛn, nhưng vợ ông và vài người con khác c̣n ở lại. Ông đến
trại tị nạn, được một phi công của hăng hàng không Alaska bảo trợ đến
Connecticut, rồi sau đó về Enumclaw, ngoại ô Seattle, tiểu bang
Washington. Tại đây, Thy Vân đă tốt nghiệp trung học, trước khi cả gia
đ́nh (thêm Trần Ngọc Sơn, Trần An Thanh) di chuyển về ở Quận Cam và chủ
trương Trung Tâm Asia.
Và phải chăng như nhà thơ Du Tử Lê thổ lộ trong đoạn “Hăy nói về cuộc đời
khi tôi không c̣n nữa!”.
“Hăy nói về cuộc đời”: Ngay khi tác giả nay c̣n sống nay, th́ đáng quí hơn
là khi tác giả đă ra đi mất rồi, mới ca tụng chiêu hồn sao?
“Tôi Xa Hà Nội, khi lên 18 khi vừa biết yêu”...
Anh Bằng sinh ra và lớn lên tại vùng đất phù sa Tân Bồi, Thần Phù, làng
Điền Hộ-Thanh Hóa. Năm 1953, người anh của ông là Đại Úy Trần An
Lạc, chỉ huy trưởng Lực Lượng Tự Vệ của Đức Cha Lê Hữu Từ, bị Việt Minh
lùng bắt gắt gao. Cùng lúc Việt Minh muốn đe dọa Đại Úy Trần An Lạc, đă ra
thêm bản án tử h́nh cho người anh là nhạc sĩ Trần Văn Măo và hai người em,
là ông Trần Tấn Mùi (trước 1975 là dân cử của tỉnh Lâm Đồng-VN) với cậu em
út Anh Bằng để tiêu diệt ḷng cương quyết bảo vệ khu tự trị, nếu ông Trần
An Lạc không chịu ra hàng.
V́ Anh Bằng không ra khỏi “vùng Tề” và khu Tư (từ Thanh Hóa tới Nghệ An)
để trốn tránh như các người anh khác, nên đă bị bắt, bị kết án và đi tù Lư
Bá Sơ... Măi đến khi Việt Minh ám sát được Đại Úy Trần An Lạc (trong lúc
ông này ngồi trên xe jeep chỉ huy từ ṭa Đức Giám Mục Lê Hữu Từ đi ra, bị
mai phục bắn hạ), th́ án tử h́nh cho Anh Bằng mới được giảm.
Theo lời ông Thơ Đường-Phạm Ngọc Pháp, phụ tá LM Nhạc (Ấp Hàng Dầu,
sau được đổi tên là An Lạc) kể rằng tên giáo xứ An Lạc đă được đặt cho một
xóm họ đạo di cư tân lập sau 1957 ở ngoại ô Sài G̣n, vùng Ông Tạ). Nhưng
ông vẫn c̣n bị giam tù với những cực h́nh khắt khe, cho đến khi có Hiệp
Định Genève th́ mới được thả, khi ấy Pháp vừa nhẩy dù xuống Phát Diệm. Anh
Bằng đưa vợ con vào Nam. Vợ ông, người bạn đời giản dị b́nh
thường, vẫn gắn bó chung dưới một mái nhà trên 60 năm qua...
Nhiều người dân làng c̣n nhắc nhớ, nhà văn Trần Khánh Liễm nói: “Có một
thời 3 anh em ông Anh Bằng, có người anh cả là nhạc sĩ đàn phong cầm rồi
đến hai ‘ca sĩ’ Trần Tấn Mùi và Anh Bằng là các giọng hát chính: Ông Mùi
là giọng hát nam solo, hai anh em cùng có giọng hát nổi tiếng át hẳn bạn
đồng lứa”. Các tiếng đàn tiếng hát đồng lớp với Anh Bằng lúc bấy giờ là
Linh Mục Hương Tiến, Linh Mục Đinh Trí Thức, ông Ninh Phúc Duật, và Trần
Khắc Kỷ (cụ Chánh Kỷ đă qua đời gần đây tại Nam Cali), cũng như một số bạn
lớp trên như Linh Mục Thanh Lăng, GS Phạm Việt Tuyền, LM Nguyễn Duy Vi,
Nguyễn Hữu Chỉnh, Đức Giám Mục Nguyễn Sơn Lâm, LM Trần Khắc Hỉ, Vĩnh Pḥ,
Phạm Tế Mỹ, chánh án ṭa nhân dân Phạm Ngọc Hoan (thân phụ của cựu Giám
Đốc Cục T́nh Báo Trung Ương Phạm Văn Huấn, bố vợ của nhạc sĩ Lê Văn Khoa),
những người trong làng danh tiếng như Sơn Điền-Vũ Ngọc Ánh, Sư Huynh Phạm
Ngọc Hóa (hiệu trưởng Taberd/ Viện Đại Học Lasan), Bác Sĩ Trần Kim Tuyến,
nhạc sĩ Nguyễn Khắc Cung (cùng người Điền Hộ), giám đốc Viện Quốc Gia Âm
Nhạc Sài G̣n, thân phụ ông Cung là cụ Bố Chánh Tỉnh Thái B́nh Nguyễn Lập
Lễ. Ngoài ra, Anh Bằng cũng là lớp đàn anh tại Ba Làng của Trần Khánh
Liễm, TNS Nguyễn Gia Hiến, Nguyễn Tiến Hỷ, Đàm Quang Hưng, TS Nguyễn Xuân
Phong, TS Nguyễn Tiến Hưng (phụ tá tổng thống, đặc trách liên bộ, đặc
trách kế hoạch VNCH). Trẻ nhất là nhạc sĩ Trường Sa, GS Phạm Thiên Hùng,
Trần Anh Liễn. Đồng thời một vài nhân vật kể trên cũng đều là bà con họ
hàng, làng nước với nhạc sĩ Anh Bằng. Sau ngày gia đ́nh đón từ Lư Bá Sơ
trở về, ông có chuyển ra Nam Định và Hà Nội trước khi di cư vào Nam, trôi
dạt không có một mảnh giấy tờ, lư lịch nào của những năm học chuyên cần,
xuất sắc từ Ba Làng nữa.
Những người bạn đồng trang lứa hoặc nhỏ tuổi hơn nhưng có đầy đủ giấy tờ
bằng cấp từ những năm học Ba Làng, th́ đă được giữ những chức vụ khá lớn.
C̣n Anh Bằng sau tháng năm tù đầy chỉ có hai bàn tay trắng, may Pháp ngữ
rất thông suốt, Anh ngữ cũng khá giỏi và cũng nhờ thời gian tự học với một
vài trí thức trong tù, ông lại trở thành một nghệ sĩ sáng tác nhạc. Trách
vụ này, ông đă đa mang trên vai tṛn suốt một đời sau đó.
Vào Nam, ông phục vụ quân đội trong ngành Công Binh từ 1957, ở Quy Nhơn
(lúc ấy Thy Vân mới vừa ra đời sau các anh chị mang tên: Dân, Việt, và
Nam). Sau đó ông được chuyển về Tiểu Đoàn Chiến Tranh Tâm Lư nhờ sáng tác
các vở kịch đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc của Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm, suốt thời gian này gia đ́nh nhạc sĩ Anh Bằng ít liên lạc với họ hàng
anh em.
Giải ngũ năm 1962, khi đang được trọng dụng nhờ tài năng văn nghệ trong
Tiểu Đoàn Chiến Tranh Tâm Lư,
ông liên lạc lại được với anh em họ hàng ruột thịt, sau đó ông cùng vợ con
về sống tại Bà Chiểu. Đây là quăng thời gian ông sáng tác rất mạnh, và gắn
bó chặt chẽ gần gủi với các hệ thống truyền thanh Quốc Gia và tư nhân.
Trong khoảng thời gian 1956-1958, Anh Bằng soạn vở kịch thơ dài khoảng 3
giờ “Đứa Con Nuôi” đoạt giải thưởng hạng nhất của giải thưởng văn học nghệ
thuật và kịch nghệ. Liên tiếp những năm sau đó, ông soạn thêm những vở
kịch nổi danh thời ấy như: Hoa Tàn Trên Đất Địch, Lẽ Sống và Nát Tan...
Những vở kịch này đă được các đài phát thanh diễn lại nhiều lần, nhưng
chẳng ai biết Anh Bằng là tác giả! Ông thích sống đời nghệ sĩ tự do, và
phát triển trong lănh vực sản xuất âm nhạc, phát thanh, ông liên tiếp có
nhiều tác phẩm best seller và lập nhiều cơ sở kinh doanh liên hệ đến ca
nhạc, như 3 quán ca nhạc Làng Văn. Cuộc sống vẫn thật yên tịnh, ông luôn
tự chế, chỉ muốn là người nghệ sĩ hết sức lăng mạn, nhưng không bao giờ đi
quá xa, và luôn giữ được vai tṛ người cha trong gia đ́nh, một nghệ sĩ
chừng mực, nghiêm chỉnh sáng tạo.
Nhờ tài năng diễn xuất kịch nghệ, được trọng dụng trong quân đội một cách
công bằng, ông luôn khiêm tốn, chừng mực: Là tác giả không ai ngờ được của
các khẩu hiệu tuyên truyền, các bài viết chiến dịch cho “Binh Méo-Cai
Tṛn”, “Huynh Đệ Chi Binh” thường được ban hài hước nổi tiếng nhất
thời ấy là nhạc AVT tŕnh bày, với mục đích nêu cao tâm t́nh của người
lính, tránh chia rẽ.
Nhạc sĩ Anh Bằng thường nhớ lại những năm cuộc chiến cao độ, thính giả ái
mộ và yêu mến ca nhạc chính là anh em quân nhân tiền tuyến hoặc hậu phương
và những người t́nh, người thân yêu của lính... Đó là thời thành tựu của
những ca khúc hát mỗi ngày, trên hệ thống Phát Thanh Thương Mại tại Sài
G̣n. Khi ca khúc “chạm” đến trái tim người nghe rồi sẽ được yêu mến, đón
nhận, chỉ giản dị thế thôi... Như “Nửa Đêm Biên Giới”, “Căn Nhà
Ngoại Ô” v.v... dành cho đại chúng, và sau này “Khúc Thụy
Du”, hoặc cuối đời: “Anh C̣n Yêu Em”, thỏa măn cả
mọi thính giả dù là kén chọn nhạc, khó tính, thích nội dung bài hát có
chiều sâu ư nghĩa, hay là đại chúng thính giả ưa nhạc đa sầu đa cảm.
Cũng như những năm ở hải ngoại này (lần thứ nh́ lập nghiệp trở lại, cũng
giống như bao nhiêu năm trước tại quê nhà, vẫn bắt đầu lại từ đầu với hai
bàn tay trắng), sáng tác của Anh Bằng có thêm những nét xúc cảm mới, đưa
vào ḍng nhạc mélody của sức sống mới dựa trên kho tàng âm nhạc Việt, bằng
xúc cảm vượt trội hơn cả so với những nhạc sĩ đă thành danh trước đây.
Những người hát nhạc Anh Bằng, như Nguyên Khang, Y Phương, Thiên Kim, họ
thể hiện thật tươi mới qua các DVD và CD Asia trong vài ba năm gần đây...
Họ cũng khiến ta liên tưởng tới mươi năm trước với Như Quỳnh, Mạnh Đ́nh
tiếng hát sở trường những khúc hát mộc mạc b́nh dị như “Chuyện T́nh Hoa
Sim”, “Chuyện Giàn Hoa Thiên Lư”. “Chuyện T́nh Hoa Trắng”, bài hát ra đời
sau nhưng vẫn tươi mới hơn những ca khúc tương tự về đồi hoa sim thơ Hữu
Loan, đă vang dội sân trường Thanh Hóa (quê Hữu Loan), nối lên cùng với
Sông Lô của Văn Cao rung động cả vùng khu Tư, trong lúc ấy Anh Bằng đang
được giáo dục và học thuộc sách nhạc Cantique de la Jeunesse của nhà ḍng.
Từ thập niên 1965-1975, với những ca khúc top hit như: Nếu Vắng Anh,
Giấc Ngủ Cô Đơn, và khi sang đến hàng loạt sáng tác như “Chuyện
T́nh Lan Và Điệp 1, 2, 3...” ra đời cùng với các nhạc phẩm khác của Sóng
Nhạc, lúc ấy Anh Bằng đă là người nhạc sĩ sống rất phong lưu, bằng tài và
chuyên cần, tự ḿnh tạo ra; đi lại bằng xe Toyota tư nhân mới, tiền bạc vô
nhiều không kể, không nhạc sĩ sáng tác hoặc nhà văn có tác phẩm nào có thể
giầu bằng.
Có nhiều người vẫn nêu câu hỏi: Tại sao tác giả Anh Bằng lại sống thầm
kín, khiêm cung, tránh cho in h́nh (dù là một nghệ sĩ... rất ăn ảnh) và
tránh trả lời các cuộc phỏng vấn của báo chí?...
Có lẽ hiểu được ông v́ bị chi phối bởi quan niệm cổ về nghiệp “xướng ca vô
loài”: Dù rất thành công về tài chánh và trở thành ‘bố già’ trong lănh vực
nghệ thuật sân khấu, ông không hề khuyến khích hoặc đào tạo con cháu nối
tiếp đường đi của ông, ngoại trừ một khi lớp hậu duệ tự ư thức và tự chọn
lựa.
Khởi đi từ những năm xa xưa mới đến Hoa Kỳ và định cư tại một thành phố
nhỏ của TB Washington trước khi về Cali chủ trương một trung tâm ca nhạc
đă lớn mạnh và rất danh tiếng hiện nay, nhạc sĩ Anh Bằng tâm sự rằng:
“Trong tủ thơ của ḿnh có trân trọng hàng ngàn tập thơ và các sáng tác của
nhiều tác giả thương mến gửi tặng, Anh Bằng trân trọng từng bài thơ, đọc
thường xuyên rất kỹ, không bỏ sót...”.
Theo lời ông, tác giả đều rất quư mến những ca sĩ hát nhạc Anh Bằng hay,
dù mới đây nhất qua ca khúc Anh C̣n Yêu Em, như Nguyên Khang, Y Phương,
Thiên Kim, cũng như xa xưa có Phương Dung, Thanh Thúy, Thanh Tuyền... đầu
thập niên 1980 ở hải ngoại có Lệ Thu, Ngọc Lan, Hải Lư. Họ hát Hạnh Phúc
Lang Thang rồi đến Như Quỳnh mà theo lời ông những tiếng hát hát thành
công đoạt trong list nhạc top hit... Tất cả, cho dù bao giờ, lúc nào ông
cũng đều dành cho những tiếng hát nhạc của ḿnh: sự cảm mến... Dù mười năm
qua, ông không c̣n thưởng thức qua thính giác được tiếng hát nào qua thanh
âm nữa. Có chăng ông chỉ c̣n ân cần xem lại h́nh ảnh, qua DVD và ghi nhận
từ những lời khen ngợi, cảm kích của thính giả.
Nhạc sĩ Anh Bằng cho rằng dù nhà thơ Phạm Thành Tài (thơ phổ cho ca khúc
Anh C̣n Yêu Em) chưa nổi tiếng “nhưng thơ có hồn, thơ gây cảm xúc cho
người viết nhạc”... và ‘cả hai ca khúc Anh C̣n Nợ Em và Anh C̣n Yêu Em đều
hay’. Trong ca khúc này, ta thấy mênh mông cả khung trời Thanh Hóa, rồi
đến Quy Nhơn và quăng đời lưu vong Quận Cam, tất cả đều phảng phất nét
lăng mạn chôn giấu.
Điểm đặc biệt là có một vài ca khúc tác giả rất bằng ḷng th́ lại không
được đón nhận mạnh, c̣n một số ca khúc tác giả không thích lắm th́ lại
được đón nhận nồng nhiệt (tuy vậy Anh Bằng cũng nói rằng: trường hợp này
ít khi xảy ra...) - Có những tập thơ hay (đối với chủ quan của Anh Bằng),
ông nói: “ḿnh đọc đi đọc lại nhiều lần - thấy sung sướng” và “ngược lại
cũng có những bài thơ của các tác giả danh tiếng nhưng lại vẫn chưa t́m ra
được nét ưng ư để phổ thành ca khúc... Tác giả BH nhận định: “Tâm hồn nhạc
sĩ Anh Bằng qua thính giả khắp nơi ghi nhận, càng những năm về sau Anh
Bằng càng thơ mộng, trẻ trung, yêu thiết tha cuộc đời này, âm thanh vang
xa...”.
Nếu Vắng Anh là ca khúc đầu tiên của Anh Bằng được in trên bản nhạc giấy
với số lượng bán rất cao (đó là nét đặc thù của nền âm nhạc miền Nam trước
1975) và cùng thời trên dĩa Sóng Nhạc-Asia qua tiếng hát Lệ Thanh, tiếng
hát sắc sảo rất hay, nhưng ít chịu xuất hiện trên sân khấu hoặc chịu in
h́nh ca sĩ trên bài hát ngày ấy. Ca khúc thứ nh́ lại do Thanh Thúy được
mời tŕnh bày mang tên: Giấc Ngủ Cô Đơn, và kế đến là tác phẩm thứ ba mang
tên: Đôi Bóng với Phương Dung rồi sau đó mới đến Lẻ Bóng một lần nữa lại
được Thanh Thúy tŕnh bày. Nhưng trước khi cho ra mắt 4 tác phẩm được các
ca sĩ thượng thặng thời đó tŕnh bày, Anh Bằng c̣n có Tiếc Thầm,
(một ca khúc cổ vơ cho cao trào đi quân dịch, bảo vệ đất nước tự do cho
người dân) ít người nghĩ đến tên tác giả, đă do ban AVT tŕnh bày
lần đầu được phát nhiều lần trên màn ảnh truyền h́nh mới ra đời được chiếu
lớn trên toàn quốc cho đợt thử nghiệm truyền h́nh đen trắng, chưa hết lại
c̣n những bài hài hước dựa trên ư thơ Hồ Xuân Hương, khiến ai cũng nhớ,
cũng cười thoải mái với Em Tập Vespa, hoặc Đánh Cờ...
Riêng bài Huynh Đệ Chi Binh th́ lại là một đề tài phẩm b́nh về sự chia rẽ
trong quân đội rất ư nghĩa khi kêu gọi đoàn kết giữa hàng tướng lănh để
chống Cộng, bảo vệ người dân...
Trong sáng tác mạnh mẽ bội phần với thời trước 1965, Anh Bằng liên tiếp
cho ra đời: Nửa Đêm Biên Giới, tiếng hát Thanh Thúy, Tiếng Ca U Hoài (một
trong những ca khúc tác giả rất thích, rất hài ḷng và biết được rằng
không thành công như những ca khúc khác), sau đó là những ca khúc mở lối
cho cao trào phát thanh thương mại như: Hai Mùa Mưa, Căn Nhà Ngoại Ô, Gơ
Cửa... cùng với cả trăm sáng tác khác, với nhiều khúc hát slogan, khúc hát
chiến dịch tuyên truyền mà Anh Bằng viết không cần lưu lại tên tác giả dù
với ông, không một việc làm hoặc sáng tác nào mà ông coi nhẹ, không đặt
trọn vẹn trái tim với tinh thần phục vụ.
Tên của từng bài hát và tiết tấu cùng chọn ca sĩ thời bấy giờ nằm trong
tay nhạc sĩ, sự t́m chọn ca sĩ, tập luyện và cùng nhau đi thu băng chung
cả là một công tŕnh kéo dài cả tuần lễ, và nhạc sĩ vừa có quyền vừa thể
hiện vai tṛ rất quan trọng trong tiến tŕnh tŕnh diễn... Cho đến khi
“Chuyện T́nh Lan và Điệp 1, 2, 3...” ra đời đă đánh dấu mức cực thịnh của
những fans ái mộ và nhu cầu nghe, thưởng thức loại nhạc t́nh cảm gần gụi
của Anh Bằng.
Sau đó sáng tác “Chuyện T́nh Trương Chi” tuy số thu có thua Chuyện T́nh
Lan Và Điệp nhưng thính giả đại đa số vẫn khát khao thưởng thức và mua các
bản nhạc giấy xuất bản với số lượng đáng kể, và số thu tài chánh đă vượt
trội một ca khúc có tựa đề tương tự , đó là “Khối T́nh Trương Chi” của
nhạc sĩ thành danh Phạm Duy: Dù ca khúc kư tên Phạm Duy này là loại nhạc
noble, được đánh giá sang cả, nhưng ít ai bỏ tiền ra mua nhạc giấy bài
này, hoặc yêu cầu nghe qua các chương tŕnh Phát Thanh Thương Mại thường
nhật so với Anh Bằng.
Trong khi các chương tŕnh phát thanh thương mại, quyến rũ đông đảo thính
giả, từ học sinh, thanh niên, bạn trẻ, quân nhân tiền tuyến, em gái hậu
phương, cả giới lao động thợ thuyền, cả những bạn gái trẻ nhọc nhằn gánh
nước cũng dành dụm đồng tiền khó kiếm, mua nhạc giấy hoặc dĩa nhạc Chuyện
T́nh Lan Và Điệp. Những tháng năm đó có phong trào “say mê” với các chương
tŕnh Phát Thanh Thương Mại, tư nhân là chủ tràn ngập những quảng cáo như
ta vẫn thấy ngày nay rất nhiều ở Hoa Kỳ.
Một trong những sáng tác mới và rất sung măn gần đây của Anh Bằng là
“Khóc Mẹ Đêm Mưa” qua tiếng hát Đặng Thế Luân, Nhạc sĩ Anh Bằng tâm sự
rằng: “Mẹ mất sớm, người anh cả (bị Việt Minh ám sát từ sớm) khiến Anh
Bằng lúc nào cũng chơ vơ nhớ và cần mẹ, nhưng đến khi người anh từ
trần ngày 29 tháng 4-2006, khiến nhạc sĩ Anh Bằng cảm nhận như một mất mát
thật lớn lao đă xảy ra cho ḿnh”. Nước mắt và xúc động rất chân thật nhiều
tháng đă khiến cho ca khúc sống thật và thương cảm, gieo cảm xúc cho hầu
hết người nghe qua ca khúc...
Tính t́nh kín đáo, thiện cảm của Anh Bằng khiến những ‘sếp’ lớn trong
ngành âm nhạc tuyên truyền cũng chẳng bao giờ biết Anh Bằng chính là tác
giả những sáng tác như Tiếc Thầm, và là tác giả những vở kịch được quân
đội diễn nhiều nơi. Một tâm hồn nghệ sĩ tiềm ẩn biết bao thơ mộng mà bây
giờ sau hơn 50 năm nh́n lại sự nghiệp, nhiều thính giả mới thầm thán phục
thêm khi nghe những ca khúc lăng mạn chân t́nh như: Khúc Thụy Du, Anh C̣n
Yêu Em, Khóc Mẹ Đêm Mưa... Tiếc Thương trong DVD Lá Thư Chiến Trường muộn
màng ra đời. Và đến nay, gần như không DVD Asia nào có sáng tác mang tên
Anh Bằng mà không được chờ đón.
Trở lại với các sáng tác như bài “Chuyện Giàn Thiên Lư” cảm nhận từ ư bài
thơ Nhà Tôi của Yên Thao, hoặc Trúc Đào, ư thơ của Nguyễn Tất Nhiên. Theo
nhà văn Phạm Quốc Bảo: “Chúng ta thấy các bài thơ dài thượt, khó bắt được
âm điệu để diễn tả những ư thơ, thế mà qua tay nhạc sĩ Anh Bằng, ông tỏ ra
rất dễ dàng nắm bắt được ư chính những rung cảm mạnh mẽ nhất, thô sơ nhưng
gần gũi nhất, để người nghe sẽ nhớ ngay, hiểu ngay và có thể hát lại dễ
dàng, họ sẽ yêu thích và ghiền... Và công lao chính là nhờ âm điệu của
ḍng nhạc tài hoa, dù chỉ cảm nhận một vài ư thơ, nhưng không bao giờ Anh
Bằng quên trang trọng đề tên nhà thơ qua tác phẩm ấn hành.”
Kiếm được một bài nhạc sẽ ăn khách rất khó, kiếm được một bài thơ hay trở
thành ca khúc lại càng khó hơn nữa, nhưng Anh Bằng đă “đeo” cho bài thơ
một đôi hia bảy dặm, nó đă bay bổng xa tới tận đâu đâu... “Chỉ cần 32
trường canh”, ông đủ diễn tả cho thính giả biết tựa đề, nét lăng mạn và
nội dung của bài thơ bài hát... và như ánh sét, nhanh chóng đi ngay vào
tận mỗi trái tim. Ông biết trước loại nhạc nào quần chúng thích, kể cả vào
những năm sau những đảo chính, chỉnh lư, biến động ở Miền Nam, người dân
cần những t́nh cảm mới, nguồn xúc động tươi tắn, gần gũi, b́nh dị và trong
thời điểm này có những sáng tác cho chiến dịch, như “Nửa Đêm Về Sáng”,
“Nửa Đêm Biên Giới” như các khẩu hiệu cổ động, nó phát xuất từ Anh Bằng:
Chỉ trong thoáng chốc ngồi ở bàn viết và liền được tung lên phát thanh,
vang dội toàn quốc ngay sau đó...
Nhạc sĩ Anh Bằng quá dầy kinh nghiệm phát hành, phân phối của trung tâm
Dĩa Sóng Nhạc, từ những năm điều hành hệ thống âm nhạc ở các đài Phát
Thanh Quốc Gia, cho tới các chương tŕnh Phát Thanh Thương Mại. Cái nh́n
viễn kiến của ông, theo lời anh Trần Văn Khải là “nh́n ra biển rộng mênh
mông chân trời bao la, và tiến mạnh, chứ không chỉ là cái nh́n nhỏ hẹp
trong ao hồ nhỏ bé”. Âm nhạc và văn nghệ miền Bắc chỉ có kho súng đạn,
chiến đấu trong khi miền Nam là một kho tàng nhạc giá trị t́nh tự và nhân
bản.
Dù trong một hai năm đầu lớp dạy nhạc Lê Minh Bằng khu nhà thờ Tân Định
Sài G̣n, mới chỉ vừa đào tạo đă có được thêm Trang Mỹ Dung và Giáng Thu...
cho các chương tŕnh phát thanh kịp một năm trước khi miền Nam thất thủ
vào tháng Tư 1975. Đó là những năm hợp tác tuyệt vời của bộ ba: Lê Dinh
đến Canada (sinh năm 1934, là viên chức trọng yếu phụ trách Tân Nhạc của
Đài Phát Thanh Sài G̣n), Nhạc Sĩ Minh Kỳ (1930-1975), đi tù và chết và Anh
Bằng, trong cái tên ghép ba người: Lê-Minh-Bằng.
Ra hải ngoại, Anh Bằng khởi nghiệp ban đầu với người cháu là nhà tổ chức
ca nhạc Trần Thăng, chung sức lập ra Trung Tâm Dạ Lan khoảng năm 1984.
Ông vốn sẵn có tài, có sáng tạo và người cháu có tài chánh, nhiệt huyết và
sáng kiến; nên những năm đầu tiên rất thành công đáng kể. Trong dịp này,
Thy Vân cũng xuất hiện trên một số b́a băng cassett nhạc khi hát một vài
ca khúc, nhưng sau đó Thy Vân biến dần vào lănh vực tổ chức. Cô có ư muốn
phát triển lớn rộng hơn, và Asia ra đời từ đó. Khi rời Dạ Lan cũng là lúc
Thy Vân không c̣n hát và bắt đầu điều hành, phát triển Asia dưới sự hướng
dẫn và công sức của thân phụ. Nhờ vậy, Asia đă lên rất cao.
So sánh với vài nhạc sĩ có tiếng, có tài và thế lực giao tế rộng, sáng tác
mạnh như Hoàng Thi Thơ, Phạm Duy nổi bật trong giới văn nghệ nhờ báo giới
luôn nhắc nhở khen ngợi, cũng phải chịu nhượng bộ trong khung cảnh xa lạ
xứ người... Từ đó mới thấy sự chọn lựa đúng lúc và có kế hoạch cũng như
tài năng phong phú, nhạc sĩ Anh Bằng lớn lao vượt trội là như thế!
Soạn nhạc để có người yêu mến, và có số thu tài chánh khó ai có thể ngờ
tới... Không đáp ứng được quần chúng qua một vài ca khúc th́ bị loại bỏ.
Có lẽ như thế mà những ca khúc gần đây mới là cảm nhận nét lăng mạn, tài
hoa, như mỗi loạt nhạc ra đời của Asia, và Anh Bằng nói riêng là thêm một
đợt đón nhận mới, lạ kỳ!
Nhạc sĩ Anh Bằng thập niên qua đă có góp phần viết script, chọn nhạc, soạn
nhạc, cùng đóng góp ư kiến trong việc chọn ca sĩ và ca khúc... góp sức đưa
Asia lên mức thành công rất cao. Tâm niệm của Anh Bằng là “đáp ứng quần
chúng, muốn người nghe thỏa măn tâm sự của nghệ sĩ sáng tác; như vậy có
nghĩa là tác phẩm đă thành công...”. Cũng như khi lập ra lớp huấn luyện
nhạc trước 1975, ông cũng cũng có một lư do đặc biệt: “vừa đào tạo, vừa
t́m kiếm ra tài năng mới”.
Đă từng sống trong Lư Bá Sơ, từng đêm nghe tiếng cai tù đánh thức những
người bạn đồng tù khác, thức dậy, trói ké, mang ra sân bắn hoặc mang đi
điều tra hành hạ có lẽ là nỗi ám ảnh khôn nguôi trong đầu của nhạc sĩ... thiếu
ăn, thiếu áo quần, thiếu một mảnh chăn đơn để che đắp cái rét giá tù
đày... nhưng tác giả Anh Bằng luôn nở một nụ cười, không chua cay oán thù.
Đối với người nhạc sĩ đầy tấm ḷng nhân ái này, ông luôn có một nụ cười
tươi tắn cho cuộc sống, hầu như không bao giờ ganh ghét.
Không bận ḷng với ai, chỉ phấn đấu say mê làm việc, thúc đẩy tự chính
ḿnh, nhưng luôn tươi tỉnh với một câu nói như giờ thúc quân (kinh nghiệm
từ gian khổ). Ông thường thúc đẩy: “Khi làm việc th́ phải tiến lên, phải
‘sắt máu’, ư của ông chỉ muốn diễn tả ḷng quyết tâm. Ông không tranh
giành với đồng nghiệp hoặc với một ai, v́ bản tính chân chất hiền lành...
nhưng có thể chỉ ngoại trừ với lập trường và v́ lằn ranh trong cách sống?
Một đời tận tụy, với trên 500 sáng tác, trong đó rung cảm của ông trải ra
với độ 200 bài phổ thơ. Nhưng trên tất cả vẫn là một tấm ḷng trọn vẹn với
đất nước của một nghệ sĩ có lư tưởng, dù rất thành công nhưng xem ra ông
vẫn thấy không được như mơ ước. Anh Bằng đă hưởng những phúc lợi từ các ḷ
luyện thép và có những người cũng đă “đứng dậy được” sau những “cú đấm
thôi sơn” của vận nước mà không thiếu ǵ những người đă cũng như tiếp tục
gục ngă, mà có mấy ai vững niềm tin “sau cơn mưa trời đă lại sáng’...
Riêng Anh Bằng, như người tù vượt ngục Papillon, đă “đứng dậy được”...
Và bao nhiêu năm đă trôi qua, nước chảy qua cầu, tác giả Anh Bằng với trái
tim nhân ái, nụ cười hiền lành từ thời học tập ở Ba Làng (cùng chất chứa
đau thương Lư Bá Sơ sau đó), tấm ḷng với âm nhạc luôn tươi tắn, nhạc t́nh
Anh Bằng cuối đời vẫn thêm mới mẻ, đi vào từng trái tim, và ở lại lâu dài
(so với sự đào thải nói chung... nhanh đến độ tàn nhẫn hiện nay, nhất là
t́nh trạng nhạc trong nước), qua một số sáng tác mănh liệt và lâu bền, vừa
ḷng mọi giới mộ điệu ở tŕnh độ thưởng ngoạn khác nhau.
Ngày xưa ông đă sáng tác có “Chuyện T́nh Lan và Điệp”, bây giờ qua Hoa Kỳ
ông lại tiếp tục sáng tác có Chuyện T́nh Hoa Sim, Chuyện Hoa Trắng, Chuyện
Giàn Hoa Thiên Lư: Đề tài cũ nhưng vẫn được đón nhận và hay vượt trội,
ngoài ra c̣n có ca khúc, ư thơ của Nguyễn Tất Nhiên: Trúc Đào...
Tuy vậy những năm đầu khi chưa thành Trung Tâm Ca nhạc tại Hoa Kỳ, ông đă
có những ca khúc sáng tác như: Huế Xưa, Cơi Buồn được đánh giá là cũng
hay, nhưng không được hưởng ứng nồng nhiệt.
Sang đây, Chuyện T́nh Hoa Sim làm kỷ niệm vào nghề của Như Quỳnh, khi cô
mới tới Hoa Kỳ. Ngày ấy, Như Quỳnh được nhạc sĩ Trúc Giang, thân sinh nhạc
sĩ lắm tài Trúc Hồ (đang nối nghiệp tài năng nhạc Anh Bằng?) giới thiệu
tại nhà thờ Tam Biên quận Cam-Cali, và cùng với ḍng nhạc lăng mạn t́nh
tứ, Như Quỳnh là mặt nổi của ḍng nhạc Anh Bằng được đại chúng yêu mến.
Những tài danh 10 năm qua, 20 năm qua, hoặc 40 năm về trước... và mới nay
thôi cũng chỉ là một sự nối tiếp: Anh Bằng đă từng g̣ luyến láy những năm
xa xưa cho Phương Dung, Thanh Thúy, Thanh Tuyền. Sự nổi tiếng của những
tên tuổi này trong làng âm nhạc, từ trong nước đến hải ngoại, nói lên được
rằng, cây đũa thần đủ sức biến cô Tấm thành công nương được hay không?
Nơi đây, với nhạc sĩ Anh Bằng trong vài chục năm qua, câu trả lời là có
“tên tuổi thành danh là một initial cho một bài mới sáng tác”. Khác với
nhiều người nói chung - chưa kịp được khen ngợi đă bị loại bỏ - quên lăng,
chính v́ đó là những cái hay ngay từ bước đầu, giống như chương tŕnh
thương mại Anh Bằng góp công sức ngày xưa thật khó khăn, nhưng thành công
ngay. Định luật chung: Phải tài hoa mới được trao phó cho, để tạo được
những bước nổi lên đ́nh đám... Một ca khúc mới, một bài thơ mới, một tiếng
hát mới, có nổi được trên sân khấu (hoặc có cơ hội bước được lên sân khấu)
và được vang dội khắp nơi, cũng đă là chuyện khó.
Tác giả Anh Bằng đôi lần thổ lộ rằng: “Tôi không muốn tác phẩm bị cô đơn,
lẻ loi trong âm nhạc, không muốn bài hát ḿnh nghĩ là hay, mà chỉ dành
riêng cho vài người hay để chỉ một giới người thích và hiểu được, mà đă
sáng tác là phải đụng tới một khối lớn đa số quần chúng yêu thích”. Theo
ông, “sẵn ḷng xóa bỏ một sáng tác, khi nghĩ rằng sự ra đời ca khúc nào đó
sẽ không chiếm được đa số quần chúng đón nhận”.
Chính v́ vậy mà ở kết hợp “Ư thơ cùng với mélody” phải vang vọng trong tâm
tưởng. Tác giả phải ngồi xuống bàn vào buổi chiều, có khi cạnh người cháu
Trần Khải (hoặc Trần Thăng sau này là giám đốc Hollywood Night- Dạ Lan)
cận kề tán thưởng: Những ngón đàn guitar dạo mélody của ông, thường được
tâm sự chia sẻ, trao đổi với người thân khi sáng tác, khi ca khúc vừa kết
thúc...
Nhưng ngược lại, hầu như ông không hề khuyến khích các người con ông theo
ngành sáng tác âm nhạc? Không một lời giải thích của tác giả v́ sao? Có
thể các người con không có một quá tŕnh dài học nhạc như ông tại Ba Làng,
không có hoàn cảnh thúc đẩy cần thiết, không trải qua những kinh nghiệm
lẫn thương đau?
Và sáng tác tiếp nối sáng tác thành tác phẩm được đón nhận, chỉ giản dị
đắm say trong vài giờ viết nốt với chữ viết luôn trân trọng và đẹp (và
ngày nay th́ nhạc sĩ Anh Bằng sáng tác-gơ nốt nhạc trên máy điện toán).
Những bản nhạc ấy chẳng mấy lâu sau sẽ đồng loạt phổ biến xa rộng, và “một
sớm một chiều” được hưởng ứng, ngưỡng mộ...
C̣n ngày nay, cung cách sáng tác không khác, ông dựa trên ư tưởng lời thơ,
tươi vui bên phím điện toán... có khác chăng là Anh Bằng đi ngược lại với
thời gian, sống lại với đồi sim tím mênh mang quê nhà Hữu Loan, tím cả
chiều hoang biền biệt càng ngày nhạc càng thêm trẻ và căng đầy sức sống...
Nhạc sĩ Anh Bằng thường tâm sự: từ kinh nghiệm học ở Ba Làng, ông được hun
đúc sức sống và tận tụy làm việc mănh liệt và cương quyết.
C̣n bây giờ là lúc nh́n thấy các hậu duệ đă vững vàng trên đường sự
nghiệp, th́ ông bắt đầu thanh thản và an nhiên... Những năm lao động khổ
sai, khi lănh án tử h́nh của Lư Bá Sơ, đói khổ là hành trang để ông thêm
trân trọng tự do, nhân bản mà ḿnh được hưởng ở Miền Nam, và ở cả bên
ngoài nước Việt Nam ngày nay.
Doan Nhat Tao
_______________________________
Tác
phẩm của Nhạc sĩ Anh Bằng:
Một số ca khúc được phổ biến rộng răi:
Nỗi Ḷng Người Đi
Nếu Vắng Anh (ư từ bài thơ “Cần Thiết” của Nguyên Sa)
Mất Nhau Mùa Đông
Khúc Thụy Du (thơ: Du Tử Lê)
Sầu Lẻ Bóng
Người Thợ Săn Và Đàn Chim Nhỏ
Mai Tôi Đi (thơ: Nguyên Sa)
Trúc Đào (thơ: Nguyễn Tất Nhiên)
Anh Biết Em Đi Chẳng Trở Về (thơ: Thái Can)
Chuyện Giàn Thiên Lư (theo thơ Yên Thao)
Anh Cứ Hẹn (thơ: Hồ Dzếnh)
Bướm Trắng (thơ: Nguyễn Bính)
Anh C̣n Yêu Em (thơ: Phan Thành Tài)
Anh C̣n Nợ Em (thơ: Phan Thành Tài)
Ngày Tôi Về (thơ: Phạm Thiện Lư)
Hoa Học Tṛ (thơ: Nhất Tuấn)
Căn Nhà Ngoại Ô
Nước Mắt Mẹ Tôi
Khóc Mẹ Đêm Mưa
Hẹn Anh Đêm Nay
Linh Hồn Tượng Đá
Tango Dĩ Văng
Tango Tím
Sài G̣n Thứ Bảy
Nửa Đêm Buốt Giá
T́nh Yêu Tuyệt Vời
Lời T́nh Băng Giá
Trả Em Cay Đắng Mộng Vàng
Dù Nắng Có Mong Manh
Nhớ Sài G̣n (cùng Trúc Giang)
Tâm Hồn Cô Đơn
Cô Bé Môi Hồng
Chuyện Hoa Sim (ư thơ “Màu tím hoa sim”: Hữu Loan)
Chuyện T́nh Hoa Trắng (ư thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”: Kiên Giang)
Chuyện Người Con Gái Ao Sen
Từ Độ Ánh Trăng Tan (thơ: Đặng Hiền)