Những ngộ nhận lịch sử - Viết cho Tháng Tư
Đỗ Ngọc Uyển
Kể từ sau biến cố lịch sử 30-4-1975, một số
sử gia, nhà nghiên cứu, nhà văn… đă đưa ra một số nhận định về các sự
kiện chính của cuộc chiến tại Việt Nam như sau:
Cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến hoặc một cuộc chiến uỷ nhiệm.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đă bại trận và Quân Đội Cộng Sản đă thắng
trận.
Cuộc chiến Việt Nam đă vĩnh viễn chấm dứt kể từ ngày 30-4-1975.
Khi đưa ra những nhận định trên đây, người ta đă chỉ nh́n thấy hiện
tượng của các sự kiện mà không nh́n thấy bản chất của chúng. Những nhận
định hời hợt này đă đưa đến những ngộ nhận tai hại về một giai đoạn quan
trọng của lịch sử đất nước. Tŕnh bày trung thực những sự kiện chính của
một giai đoạn lịch sử là trách nhiệm của các thế hệ đă tham gia vào, đă
là chứng nhân trong giai đoạn lịch sử đó và cũng là để trả một món nợ
đối với các thế hệ tương lai bởi v́ hậu thế có quyền đ̣i hỏi, có quyền
biết những sự thật lịch sử trong quá khứ, những ǵ mà các thế hệ đi
trước đă làm. Để trả lại sự thật cho lịch sử, phải t́m hiểu chính xác
bản chất của các sự kiện nói trên. Đây cũng là công việc chính danh, đặt
tên cho đúng.
I - Cuộc Chiến Việt Nam là Một Cuộc Nội Chiến hoặc Một Cuộc Chiến Uỷ
Nhiệm
1 - Khi nhận định cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến, người ta đă
dẫn chứng rằng những người lính ở hai bên chiến tuyến cùng là người Việt
Nam. Đây chỉ là hiện tượng và như vậy không thể vội vă kết luận cuộc
chiến này là một cuộc nội chiến. Muốn biết bản chất của cuộc chiến này,
hăy t́m hiểu những người lính VNCH và những người lính CSVN đă suy nghĩ
những ǵ trong đầu họ khi cầm súng trực diện đối đầu nhau ngoài mặt
trận. Việc này không khó.
Trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam Cộng Hoà kéo dài 20 năm do Cộng Sản
Miền Bắc phát động theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế,
mỗi lần cầm súng ra
trận, những người lính Việt Nam Cộng Ḥa đều mang trên vai TỔ QUỐC -DANH
DỰ và TRÁCH NHIỆM đối với Tổ Quốc cùng với niềm tin họ đi chiến đấu để
bảo vệ thể chế dân chủ tự do của quê hương Miền Nam: Việt Nam Cộng Ḥa,
để chống lại quân xâm lược Cộng Sản Miền Bắc nhằm thôn tính và áp đặt
một chế độ cộng sản độc tài toàn trị lên Miền Nam. Đây cũng chính là đi
chiến đấu để bảo vệ những giá trị truyền thống của lư tưởng quốc gia dân
tộc mà tổ tiên đă dày công xây dựng, vun đắp và bảo vệ trong suốt ḍng
lịch sử của dân tộc.
Trong suốt những năm dài trong quân ngũ, những người lính CSVN đă phải
thường xuyên học tập về chủ nghĩa cộng sản. Họ bắt buộc phải trung thành
với Đảng Cộng Sản Việt Nam, phải phục vụ và hy sinh cho lư tưởng của chủ
nghĩa cộng sản. Những người lính này, khi cầm súng ra trận, đều có một
niềm tin mù quáng sắt đá rằng họ đi "làm nhiệm vụ quốc tế vô sản" ngay
trên đất nước Việt Nam và toàn cơi Đông Dương để xây dựng một thế giới
đại đồng không c̣n giai cấp bóc lột, không c̣n tôn giáo, không c̣n tổ
quốc, không c̣n biên giới quốc gia… theo đúng lư tưởng của chủ nghĩa
cộng sản mà Hồ Chí Minh đă lén lút du nhập vào Việt Nam.
Những phân tích trên đủ để chứng minh cuộc chiến tại Việt Nam không phải
là một cuộc nội chiến v́ những nguyên nhân tranh chấp, chia rẽ trong nội
bộ quốc gia mà chính danh là Cuộc Chiến Quốc Cộng. Đó là cuộc chiến giữa
hai phe mang hai ư hệ Quốc Gia và Cộng Sản chống đối nhau quyết liệt,
một mất một c̣n như bốn câu thơ sau đây được viết trong một trại tù cộng
sản tại Hoàng Liên Sơn:
Nó sống th́ ḿnh thác
Ḿnh c̣n nó phải tiêu
Lối đi chỉ một chiều
Chẳng c̣n đường nào khác.
Cung Trầm Tưởng
Hoàng Liên Sơn, 1977
Trong Cuộc Chiến Quốc Cộng, Việt Cộng luôn luôn đặt một câu hỏi thách
thức có tính khẳng định: “Ai thắng ai?” Câu hỏi này đang được lịch sử
trả lời.
Đối với Việt Cộng, Pháp hay Mỹ… chỉ là những kẻ thù giai đoạn và có thể
trở thành "bạn đối tác chiến lược" như Hoa Kỳ ngày nay. Trái lại, thực
tế 80 năm nay đă chứng minh rằng người Việt quốc gia, tức toàn dân Việt
Nam, mới là kẻ thù không thể đội trời chung về ư thức hệ mà Việt Cộng
phải tiêu diệt trước khi chúng có thể xây dựng được “chế độ xă hội chủ
nghĩa” tại Việt Nam.
Có người đă so sánh Cuộc Chiến Quốc Cộng tại Việt Nam với Cuộc Nội Chiến
Hoa Kỳ - một cuộc chiến có nguyên nhân chia rẽ nội bộ là vấn đề nô lệ -
và trách móc Việt Cộng đă không đối xử với những chiến binh QLVNCH như
phe thắng trận đă đối xử một cách mă thượng đối với phe thua trận trong
Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ. So sánh như vậy là lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia,
là bao che cho tội làm tay sai cho ngoại bang của Việt Cộng; cũng như
trách móc cộng sản đă đối xử tàn ác với những chiến binh QLVNCH bị sa cơ
sau ngày 30-4-1975 là không hiểu ǵ về bản chất của cộng sản, một lũ vô
nhân tính, với chủ trương “đấu tranh tiêu diệt giai cấp”, làm sao chúng
có nhân ái và lương tri để cư xử giống như con người được!
2 - Khi nh́n thấy người lính Việt Nam Cộng Hoà chiến đấu bằng vũ khí do
Hoa Kỳ viện trợ và người lính Cộng Sản Việt Nam chiến đấu bằng vũ khí do
Liên Xô và Trung Cộng cung cấp, người ta đă vội kết luận đây là cuộc
chiến do các thế lực quốc tế uỷ nhiệm. Nhận định này chỉ đúng một nửa.
Vũ khí trong tay người lính chỉ là một phương tiện vô tri không nói lên
được ư nghĩa và bản chất của cuộc chiến. Chính mục đích mà hai phe theo
đưổi trong cuộc chiến - như đă tŕnh bày ở trên - mới nói lên ư nghĩa và
bản chất của cuộc chiến.
Nh́n kỹ lại lịch sử Việt Nam cận đại sẽ thấy Cuộc Chiến Quốc Cộng c̣n
đang tiếp diễn tại Việt Nam ngày hôm nay đă bắt đầu từ cuối năm 1924 khi
Hồ Chí Minh theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế đến hoạt động tại Quảng Châu,
Trung Hoa, để đánh phá các đảng phái cách mạng của người quốc gia đang
hoạt động tại Hoa Nam. Hồ Chí Minh đă bán Cụ Phan Bội Châu cho Pháp để
lấy 100,000$ tiền Đông Dương; đă xâm nhập và chiếm đoạt Tâm Tâm Xă của
Phạm Hồng Thái; đă xâm nhập và tiếm danh Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội
(gọi tắt là Việt Minh) của Cụ Hồ Học Lăm; đă xâm nhập, phá hoại, lũng
đoạn và leo tới chức uỷ viên trung ương của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh
Hội của Cụ Nguyễn Hải Thần…Tất cả những việc làm trên đây đều được Hồ
Chí Minh báo cáo từng chi tiết cho Đệ Tam Quốc Tế để lănh lương và xin
phụ cấp.
Hồ Chí Minh đă gây ra cuộc chiến tranh với Pháp trong tám năm và lợi
dụng thời gian chiến tranh này để tàn sát đẫm máu các thành viên của các
đảng phái quốc gia. Sau khi chiếm đuợc chính quyền tại Miền Bắc vào năm
1954, Hồ Chí Minh tiếp tục truy lùng và tiêu diệt hết các đảng phái quốc
gia. Cuộc Chiến Quốc Cộng do Hồ Chí Minh phát động và kéo dài cho tới
ngày nay là cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử và đă cướp đi sinh
mạng của ít nhất là năm triệu người Việt. Đây là tội ác lịch sử của Hồ
Chí Minh và Băng Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Sau khi chiếm được một nửa đất nước vào năm 1954, Hồ Chí Minh đă tuyên
bố:
“Nhận chỉ thị của Đệ
Tam Quốc Tế để giải quyết vấn đề cách mạng (vô sản) tại Việt Nam, tôi đă
hoàn thành nhiệm vụ”.
Những lời thú nhận trên đủ để chứng minh chính Hồ Chí Minh đă phát động
Cuộc Chiến Quốc Cộng theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế. Người Việt quốc gia,
tức dân tộc Việt Nam, đă và c̣n đang tiếp tục chiến đấu diệt cộng không
phải do một thế lực quốc tế nào uỷ nhiệm mà v́ trách nhiệm đối với quê
hương. Người Mỹ chỉ tham gia, viện trợ và cam kết giúp người Việt quốc
gia trong Cuộc Chiến Quốc Cộng kể từ năm 1954, khi họ nhận thấy hiểm hoạ
bành trướng của Trung Cộng xuống vùng Đông Nam Á - một vùng có lợi ích
kinh tế và chính trị lâu dài của Hoa Kỳ - thông qua bọn tay sai Việt
Cộng. Tuy nhiên, sau khi đạt được thoả thuận với Trung Cộng và thấy
"không c̣n nguy cơ bành trướng của Trung Cộng xuống vùng Đông Nam Á
nữa", người Mỹ rút lui và chấm dứt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho
VNCH vào năm 1973. Đó là tinh thần thực dụng và duy lợi của những người
làm chính sách của Hoa Kỳ bất kể đạo đức chính trị và những lời cam kết
long trọng của năm vị tổng thống Hoa Kỳ trong quyết tâm giúp VNCH chống
lại cuộc xâm lăng của Cộng sản Miền Bắc. Người Mỹ đă rút khỏi cưộc chiến
nhưng người Việt quốc gia, tức toàn dân Việt Nam, vẫn tiếp tục Cuộc
Chiến Quốc Cộng cho tới khi nào thanh toán xong Băng Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Đây là nhiệm vụ lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Cuộc chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Ḥa nằm trong chủ trương bành trướng
của Đệ Tam Quốc Tế xuống vùng Đông Nam Á được uỷ nhiệm cho Đảng CSVN.
Năm 1976, trong một cuộc họp nội bộ, Lê Duẩn, Tổng Bí Thư của Đảng Cộng
Sản Việt Nam đă tuyên bố:
“Chúng ta đánh Mỹ là
đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc và chúng ta đă thành công trong
việc cắm lá cờ quốc tế Mác Lê trên toàn cơi Việt Nam”.
Ngoài ra, tờ "Sài G̣n Giải Phóng", một tiếng nói chính thức của đảng
CSVN, đă tự khai lời của Lê Duẩn như sau:
“Trung Quốc vĩ đại đối
với chúng ta không chỉ là người đồng chí mà c̣n là người thầy tín cẩn,
đă cưu mang chúng ta nhiệt t́nh để chúng ta có được ngày hôm nay th́ chủ
quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc hay thuộc ta cũng vậy thôi”.
Những lời tự thú trên
của Lê Duẩn và của tờ "Sài G̣n Giải Phóng" là những bằng chứng hùng hồn,
hiển nhiên, không thể chối căi rằng chính danh của “bộ đội Cụ Hồ” là
lính đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế, cho Trung Cộng và Liên Xô. Với bản
chất là lính đánh thuê chuyên nghiệp cho ngoại bang, “bộ đội Cụ Hồ” chưa
bao giờ chiến đấu v́ tổ quốc Việt Nam. Những người “bộ đội” này không có
chỗ đứng trong ḍng lịch sử chính thống của dân tộc; chỗ đứng của họ là
ở trong lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam, một chi bộ của Đệ Tam Quốc
Tế.
Những phân tích trên đây đă chứng minh rằng trong
Cuộc Chiến Quốc Cộng,
người lính Việt Nam Cộng Ḥa cầm súng đi chiến đấu để bảo vệ quê hương
Miền Nam, chống lại cuộc xâm lăng của Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho
Chi Bộ Cộng Sản Việt Nam.
Và, người “bộ đội Cụ Hồ” cầm súng đi đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế dưới
chiêu bài đi làm nhiệm vụ quốc tế vô sản để thực hiện lư tưởng đại đồng
của chủ nghĩa cộng sản như Hồ Chí Minh đă xuất khẩu mấy câu thơ một cách
ngông cuồng, hỗn xược khi một lần y đi ngang qua đền thờ Đức Thánh Trần
tại Vạn Kiếp: “…Bác đưa một nước qua nô lệ. Tôi dẫn năm châu tới đại
đồng…”
II – Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa Đă Bại Trận và Quân Đội Cộng Sản Đă
Thắng Trận
Trong Binh Thư Yếu Lược của Đức Thánh Trần có đoạn ghi rơ:
“Từ xưa các trường hợp nhờ
quân ta rối loạn mà địch được thắng lợi đếm không xuể. Quân ta rối loạn
đem lại thắng lợi cho địch có nghĩa là quân ta tự tan vỡ, chớ không phải
địch đánh thắng ta. Nếu sĩ tốt tự rối loạn, dẫu là tướng tài cũng phải
chịu nguy hại, như thế không c̣n nghi ngờ ǵ nữa”.
Nếu theo sát những biến chuyển quân sự trong 50 ngày trước ngày
30-4-1975, người ta rất dễ nhận thấy đă có những cuộc hoảng loạn (panic)
được tạo ra bằng nhiều cách để làm tan ră hàng ngũ pḥng thủ của Quân
Lực Việt Nam Cộng Hoà. Trong suốt thời gian này, hai đài phát thanh quốc
tế BBC và VOA đă liên tiếp hai buổi mỗi ngày, sáng và tối, loan truyền
những tin tức gây chấn động kinh hoàng làm hoảng loạn tinh thần quân dân
VNCH, góp phần làm tan ră nhanh chóng hàng ngũ QLVNCH để mang lại thắng
lợi cho quân CS. Tại nhiều nơi, hàng ngũ pḥng thủ của QLVNCH đă bị tan
ră trước khi quân CS tới chiếm.
Sau này, chính Việt Cộng
đă thú nhận chúng cũng không tin chúng có thể đoạt được thắng lợi trong
ngày 30-4-1975. Chúng đă ước tính ít nhất phải đến năm 1977, chúng mới
có thể chiếm được Miền Nam với điều kiện là Hoa Kỳ cắt đứt mọi viện trợ
quân sự và kinh tế cho VNCH và chúng vẫn tiếp tục nhận được đầy đủ tiếp
viện và yểm trợ của khối cộng sản.
Về địa h́nh quân sự, lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa hẹp chiều ngang. Do đó,
rất dễ lập những tuyến pḥng thủ hàng ngang vững chắc, kế tiếp nhau chạy
dài từ bắc vào nam để chặn đứng những cuộc tấn công quy ước vào lănh thổ
VNCH từ hướng Bắc. Muốn tấn công một tuyến pḥng thủ như vậy, địch quân
phải có một hoả lực vượt trội và một quân số đông hơn ít nhất gấp ba lần
quân pḥng thủ. Điều này được thấy rơ trong trận đánh duy nhất và cuối
cùng trong tháng 4-1975 tại Mặt Trận Xuân Lộc. Sư Đoàn 18 Bộ Binh của
QLVNCH cùng với những đơn vị tăng phái đă chặn đứng mũi tấn công của
Quân Đoàn 4 Bắc Việt gồm ba Sư Đoàn 6, 7, 341 cộng thêm Sư Đoàn 7 của
Việt Cộng tại Miền Nam cùng với một số đơn vị pháo binh và thiết giáp
tăng phái đang tiến về hướng Sài G̣n. Trong thời gian 12 ngày đêm, từ
ngày 8 đến 20-4-1975, bốn sư đoàn chính quy cộng sản cùng với quân tăng
phái đă liên tiếp mở những đợt tấn công biển người ác liệt, đẫm máu với
chiến thuật “tiền pháo hậu xung” nhưng chúng không thể chọc thủng được
tuyến pḥng thủ của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Chúng đă phải thay thế ngay tại
mặt trận Tướng Tư Lệnh Hoàng Cầm bằng tướng VC Trần Văn Trà. Cuối cùng,
chúng vẫn phải đoạn chiến với SĐ 18 BB. Chúng để Sư Đoàn 7 VC ở lại cầm
chân SĐ18 BB và t́m cách đi ṿng áp sát vào Thủ Đô Sài G̣n.
Với Trận Xuân Lộc, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo và Sư Đoàn 18 Bộ Binh cùng
các đơn vị tăng phái đă chứng minh cho thế giới thấy tướng lănh, sĩ quan
QLVNCH là những cấp chỉ huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường và những
người lính QLVNCH là những chiến binh có tinh thần chiến đấu cao và rất
thiện chiến trong những trận đánh quy ước. Nếu không có những cuộc hoảng
loạn được tạo ra để làm tan ră hàng ngũ QLVNCH, những tuyến pḥng thủ
vững chắc của QLVNCH kế tiếp nhau suốt theo chiều dài của lănh thổ từ
bắc vào nam đă dễ dàng chặn đứng và đánh bại những cuộc tấn công quy ước
của quân xâm lăng Cộng Sản Miền Bắc trong tháng 4/1975. Và có thể quả
quyết Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà không thể bị đánh bại trong 50 ngày.
Tác giả Phillip B. Davidson - trong bài viết có tựa đề “Xuan Loc Battle”
- đă đánh giá Trận Xuân Lộc là một trong những trận đánh có tầm vóc hùng
sử ca trong hai cuộc chiến Đông Dương. “The Battle for Xuan Loc produced
one of the epic battlesof any of the Indochinese wars.”
Những sự kiện trên đây đă chứng minh: chính là v́ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà bị làm cho tan ră để mang lại thắng lợi cho Quân Đội Cộng Sản Miền
Bắc chứ không phải Quân Đội Cộng Sản Miền Bắc đă đánh thắng Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà trong ngày 30-4-1975.
Ngoài ra, theo binh thư, khi một đoàn quân xâm lược chỉ chiếm được đất,
chiếm được thành mà không chiếm được ḷng dân, đoàn quân đó không phải
là đoàn quân chíến thắng mà chính danh là một đoàn quân cướp của giết
người, một đoàn cộng phỉ. Trong 50 ngày trước ngày 30/4/1975, khi quân
cộng sản tiến tới đâu, người dân Miền Nam kéo nhau bỏ chạy tới đó suốt
từ Bắc vào Nam và bị chúng đưổi theo bắn giết rất dă man. Chỉ riêng trên
Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku tới Tuy Hoà, trong chín ngày đêm, quân Việt Cộng đă
đuổi theo, pháo kích giết chết hơn 160,000 đồng bào gồm người già, đàn
bà và trẻ nhỏ. Khi chúng chiếm được cả Miền Nam, người dân không c̣n đất
để chạy nữa, họ kéo nhau lao ra biển bất chấp nguy hiểm đến tính mạng.
Các hăng thông tấn quốc tế thời đó đă gọi những cuộc chạy giặc này là
những cuộc “bỏ phiếu bằng chân”.
Thực tế đă chứng minh suốt bao nhiêu năm nay và sẽ không bao giờ Việt
Cộng có thể chiếm được ḷng người dân Miền Nam dù rằng chúng luôn luôn
kêu gọi “hoà hợp hoà giải”. Đối với người dân Miền Nam, đoàn quân xâm
lăng Cộng Sản Miền Bắc chỉ là một bọn giặc:
“Giặc từ Miền Bắc vô Nam; bàn tay nhuốm máu đồng bào”.
Do đó, xét về bất cứ phương diện nào, đoàn quân Cộng Sản Miền Bắc cũng
không phải là đoàn quân chiến thắng trong ngày 30-4-1975 như chúng reo
ḥ và được bọn phản bội và phản chiến phụ hoạ suốt bao nhiêu năm qua để
lừa bịp lịch sử. Chúng chỉ là một bọn lính đánh thuê cho Đệ Tam Quốc Tế,
cho Liên Xô và Trung Cộng, một bọn “giặc cờ đỏ” đi cướp của giết người
và là công cụ của một băng đảng chuyên nghề đi cướp chính quyền bằng
“bạo lực cách mạng vô sản”, tức bằng khủng bố. Cái mà chúng hô hoán là
“Đại Thắng Mùa Xuân” trong ngày 30-4-1975, thực chất, chỉ là chuyện “chó
ngáp được ruồi”.
III - Cuộc Chiến Việt Nam Đă Vĩnh Viễn Chấm Dứt Kể Từ Ngày 30-4-1975
Khi thấy quân xâm lăng Cộng Sản Miền Bắc đă chiếm được lănh thổ Việt Nam
Cộng Ḥa nhưng không chiếm được ḷng người dân Miền Nam và QLVNCH bị làm
cho tan ră, người ta đă vội tin rằng Cuộc Chiến Quốc Cộng đă vĩnh viễn
chấm dứt vào ngày 30-4-1975, đă “đi vào tiền kiếp”… Đây là cách nh́n
cuộc chiến tại Việt Nam trong bối cảnh của cuộc chiến tranh lạnh toàn
cầu và sau khi người Mỹ đă rút đi và chấm dứt mọi viện trợ quân sự và
kinh tế cho VNCH. Nhưng nếu nh́n kỹ Cuộc Chiến Quốc Cộng trong bối cảnh
vận động của ḍng lịch sử chính thống của Việt Nam trong giai đoạn cận
đại, người ta sẽ thấy:
Cuộc Chiến Quốc Cộng tại Việt Nam chưa bao giờ chấm dứt mà vẫn c̣n đang
tiếp diễn dưới nhiều h́nh thái phù hợp với thế và lực của người Việt
quốc gia, tức toàn dân Việt Nam trong và ngoài nước, trong giai đoạn mới
của cuộc chiến.
Lịch sử là một ḍng vận động liên tục không đứt đoạn và có tính tiếp
nối. Ngày 30-4-1975 chỉ là một dấu mốc của lịch sử. Nó đánh dấu điểm bắt
đầu của một giai đoạn mới trong Cuộc Chiến Quốc Cộng.
Cuộc chiến này chỉ chấm dứt khi toàn dân Việt Nam thanh toán xong Băng
Đảng Cộng sản Việt Nam;
và đất nước Việt Nam thật sự có một nền hoà b́nh công chính trong đó mọi
công dân được hưởng đầy đủ những quyền căn bản của con người về dân
quyền và nhân quyền trong một chính thể dân chủ tự do như dưới Chế Độ
Việt Nam Cộng Hoà mà toàn dân Miền Nam đă dày công xây đắp trong suốt 20
năm bất kể sự phá hoại triền miên từng giây, từng phút, từng giờ trong
chiến tranh du kích phá hoại do Hồ Chí Minh phát động theo lệnh của Đệ
Tam Quốc Tế để “giải phóng Miền Nam” dù phải “đốt cháy dăy Trường Sơn”.
Kể từ ngày 26-10-1955, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, Miền Nam Việt
Nam, về căn bản, đă xây dựng được một chính thể Dân Chủ hiện đại với ba
nghành Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp độc lập với quyền lực cân bằng và
kiểm soát lẫn nhau.
Đây là một sự kiện lịch sử mà 34 năm sau, năm 1989, Tiến Sĩ Francis
Fukuyama - trong một bài tiểu luận nổi tiếng có tựa đề “The End of
History” được viết sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ và hệ thống cộng sản
bắt đầu tan ră - đă nhận định rằng:
“Cái mà chúng ta đang chứng kiến có thể không chỉ là sự kết thúc của
Cuộc Chiến Tranh Lạnh hay của một giai đoạn đặc biệt của lịch sử hậu
chiến, mà là sự cáo chung của lịch sử theo nghĩa: là điểm chấm dứt của
sự tiến hoá về ư hệ của nhân loại và sự phổ cập hoá nền dân chủ phóng
khoáng Tây Âu như là h́nh thức chính quyền sau cùng của nhân loại”.
“What we may be witnessing is not just the end of the Cold War or the
passing of a particular period of postwar history, but the end of
history as such: that is, the end point of mankind’s ideological
evolution and the universalization of Western liberal democracy as the
final form of human government…”
Xét theo nhận định trên đây của Tiến Sĩ Francis Fukuyama, chính thể Cộng
Hoà mà Miền Nam Việt Nam đă lựa chọn, chính là cái đích cuối cùng mà
nhân loại văn minh ngày nay đang đi tới.
Ngoài ra, cũng trong một tiểu luận nổi tiếng liên quan đến tiến tŕnh
dân chủ của nhân loại có tựa đề “Democracy’s Third Wave” viết năm 1991,
Tiến Sĩ Samuel P. Huntington đă chia tiến tŕnh dân chủ hoá của nhân
loại thành ba làn sóng: Làn sóng thứ nhất bắt đầu từ thập niên 1820 đến
năm 1926, kéo dài gần một thế kỷ; làn sóng thứ hai bắt đầu từ khi chấm
dứt Thế Chiến II cho đến đỉnh cao nhất vào năm 1962; làn sóng thứ ba bắt
đầu từ giữa thập niên 1970 đến nay và c̣n đang tiếp diễn.
Căn cứ vào sự phân chia này, tiến tŕnh dân chủ hoá của Việt Nam Cộng
Ḥa - bắt đầu từ ngày 26-10-1955
-
thuộc làn sóng thứ hai. Trong khi đó, các quốc gia như Đài Loan, Đại
Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Nam Dương… chỉ bắt đầu dân chủ
hoá kể từ giữa thập niên 1970 trở đi, tức thuộc làn sóng thứ ba. Điều
này chứng tỏ rằng, mặc dù đất nước ở trong t́nh trạng chiến tranh, VNCH
đă thiết lập được chính thể dân chủ tự do trước các quốc gia trong vùng
Đông Nam Á và Đông Bắc Á trên, dưới 20 năm.
Trong Chế Độ Việt Nam
Cộng Hoà, tất cả các quyền căn bản về nhân quyền và dân quyền được luật
pháp bảo vệ. Người dân có tất cả các quyền tự do về kinh tế, chính trị
đối lập, sinh hoạt đảng phái, bầu cử, ứng cử, thông tin, ngôn luận, báo
chí, tôn giáo, cư trú, di chuyển… và đặc biệt là quyền tự do tư tưởng.
Các trường đại học ở Miền Nam có quyền tự trị đại học như các đại học Âu
Mỹ. Các giáo sư đại học được tự do giảng dạy tất cả các học thuyết kể cả
học thuyết cộng sản. Đại học ở Miền Nam là một thế giới hàn lâm không ai
được quyền can thiệp. Nền dân chủ non trẻ của Việt Nam Cộng Hoà c̣n
nhiều khiếm khuyết, nhưng căn bản là một thể chế chính trị đặt trên
những nền tảng tiến bộ nhất trong lịch sử văn minh của nhân loại.
Băng Đảng Việt Cộng đă phạm tội đối với lịch sử khi chúng tiêu diệt thể
chế chính trị dân chủ này sau ngày 30-4-1975.
Ngày hôm nay, chỉ những kẻ đồng loă với tội ác lịch sử của Đảng CSVN mới
nguỵ biện rằng v́ dân trí người Việt c̣n thấp nên chưa thể thực thi được
dân chủ tại Việt Nam. Theo tổ chức Freedom House, hiện nay đă có 123
trong số 194 quốc gia trên thế giới theo chính thể dân chủ và con số này
đang tiếp tục tăng lên cùng với hai nước Tunisie và Ai Cập mới đây…Cũng
theo tổ chức Freedom House, Việt Nam bị xếp vào loại quốc gia độc tài,
lạc hậu, người dân không có quyền chính trị và không có dân quyền. Băng
Đảng CSVN đă và đang kéo dân tộc lùi lại cả thế kỷ. Chính chúng cũng
phải thú nhận: “đất nước c̣n đang tụt hậu”.
Đây là một tội đại h́nh
đối với lịch sử. Tội này (của Cộng sản Việt Nam) không tha thứ được.
Không một chính thể cộng hoà nào khi mới thành lập mà được hoàn chỉnh
ngay. Sau Cuộc Cách Mạng 1779, Cộng Hoà Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ được
thành lập với Bản Hiến Pháp năm 1787. Để hoàn chỉnh thể chế chính trị
dân chủ này, Quốc Hội Hoa Kỳ đă liên tiếp thông qua 27 bản tu chính hiến
pháp. Sau Cuộc Cách Mạng 1789, nước Pháp đă trải qua 5 nền Cộng Hoà mới
được như ngày nay. Đây là hai chính thể Cộng Hoà dân chủ đầu tiên, tiêu
biểu nhất của nhân loại đă phải mất hơn hai trăm năm để hoàn chỉnh mới
phát huy được những giá trị của dân chủ và tự do như ngày nay.
Chế Độ Việt Nam Cộng Hoà chỉ mới xây dựng và phát huy những giá trị của
dân chủ và tự do được 20 năm và c̣n đang trên tiến tŕnh hoàn chỉnh. Tuy
nhiên, nhà văn Dương Thu Hương, sau ngày 30-4-1975, khi là một đảng viên
cộng sản, đă được chứng kiến tận mắt những sinh hoạt dân chủ tự do và
nền kinh tế phồn thịnh của VNCH, đặc biệt là tại Thủ Đô Sài G̣n, đă phải
ngồi xuống vỉa hè giữa thành phố, ôm mặt khóc “như cha chết” mà than:
“Bọn man rợ đă thắng người văn minh.”
Trong lịch sử nhân loại, những bọn man rợ đă nhiều lần thắng người văn
minh nhưng cuối cùng, người văn minh đă thắng lại như trường hợp của Hy
Lạp mà thi hào Horace đă viết:
“La Grèce vaincue vainquit son farouche vainqueur.”
(Hy Lạp thua trận đă chiến thắng quân thắng trận hung rợ.)
Cứ nh́n kỹ những ǵ đă và đang diễn tiến tại Việt Nam sẽ thấy:
Cuộc Chiến Quốc Cộng c̣n đang tiếp diễn.
Bất chấp bị cấm đoán, đàn áp, bắt bớ và tù đày, công nhân các xí nghiệp
trong khắp nước thường xuyên biểu t́nh hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn
người kiên tŕ đ̣i tăng lương, đ̣i cải tiến điều kiện làm việc và thành
lập các nghiệp đoàn tự do để bảo vệ quyền lợi của công nhân.
Bất chấp bị đàn áp và khủng bố dă man, những đoàn nông dân hàng nhiều
trăm người trong khắp nước thường xuyên đi biểu t́nh kiên tŕ trong
nhiều năm nay để tố cáo tham nhũng, đ̣i đất nông nghiệp và thổ cư đă bị
bọn phỉ quyền cướp đoạt đem bán.
Tại rất nhiều địa phương từ Nam ra Bắc, đă có những cuộc nổi dậy của
hàng ngàn thậm chí hàng chục ngàn nông dân như cuộc nổi dậy của nông dân
trong toàn tỉnh Thái B́nh đă dài kéo dài trong ba tháng, từ tháng 4 đến
tháng 7-1997. Cuộc nổi dậy này đă bị CS đàn áp dă man và bưng bít rất
kỹ, không một tin tức nào lọt được ra ngoài. Sau này, người ta đă điều
tra và được biết cuộc nổi dậy này đă được tổ chức rất quy mô và đă bị
đàn áp đẫm máu như một tiểu Thiên An Môn. Đây là những cuộc nổi dậy
chống thuế, chống cường quyền, chống cướp đất… Trong những cuộc nổi dậy
này, nông dân đă bao vây, chiếm giữ các trụ sở của nguỵ quyền Việt cộng,
bắt giam các quan chức tham nhũng, ác ôn côn đồ để hỏi tội và đ̣i hỏi
công lư.
Bất kể bị đàn áp điên cuồng và khủng bố dă man, các tôn giáo - công
giáo, tin lành, phật giáo, cao đài, hoà hảo - trong khắp nước đă và đang
đồng loạt đứng lên đ̣i hỏi tự do tôn giáo, tự do hành đạo và kiên tŕ
đ̣i trả lại các bất động sản đă bị chiếm đoạt.
Bất chấp bị đàn áp dă man, thanh niên, sinh viên, học sinh đă tổ chức
những cuộc biểu t́nh chống nguỵ quyền Việt Cộng đă dâng đất, biển và đảo
cho Trung Cộng.
Các nhà hoạt động dân chủ, những nhà trí thức, các giáo sư, các luật
gia, các nhà văn, những người cộng sản ly khai, những người cộng sản đă
tỉnh ngộ và các bloggers… đă đồng loạt lên tiếng công khai đ̣i hỏi những
điều cấm kỵ nhất đối với Việt Cộng như tổ chức bầu cử tự do; tự do ngôn
luận; tự do lập hội, lập đảng; xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản; xoá bỏ hiến
pháp; xoá bỏ chế độ độc tài toàn trị và thay thế bằng một thể chế dân
chủ tự do, đa nguyên, đa đảng…
Hàng triệu người lên mạng Internet hàng ngày để theo rơi, phát biểu, đ̣i
hỏi, tranh đấu… cho dân chủ, tự do và nhân quyền cho Việt Nam.
Trước đây, hiệu ứng của các Cuộc Cách Mạng Hoa Lài tại Tunisia và Ai Cập
đă lan tới Việt Nam. Khối 8406 của Linh Mục Nguyễn Văn Lư đă chính thức
và công khai đưa ra lời kêu gọi toàn dân xuống đường biểu t́nh để lật đổ
chế độ cộng sản. Qua mạng Internet, thanh niên, sinh viên học sinh trong
toàn quốc đă kêu gọi đồng bào chuẩn bị xuống đường biểu t́nh đồng loạt
trong cùng một thời điểm tại các thành phố lớn như Sài G̣n, Nha Trang,
Đà Nẵng, Huế, Thanh Hoá, Hà Nội, Hải Pḥng … để lật đổ nguỵ quyền Việt
Cộng.
Trên đây là những đám lửa đă và đang bùng cháy trong khắp nước báo hiệu
một trận băo lửa sẽ nổ ra khi người dân bị dồn đến bước đường cùng. Với
lợi thế về chính trị và ngoại giao trên chính trường quốc tế, ba triệu
người Việt tại hải ngoại đă và đang tiếp tay tích cực yểm trợ về tinh
thần và vật chất cho cuộc chiến đấu v́ dân chủ và tự do của đồng bào
trong nước.
Khi chúng tôi viết những ḍng này, Cuộc Cách Mạng Hoa Lài tại Libya đang
bị đàn áp đẫm máu gây chấn động thế giới. Ngày 26-2-2011, Hội Đồng Bảo
An Liên Hiệp Quốc đă thông qua, với số phiếu thuận 15-0, một nghị quyết
trao cho Toà Án H́nh Sự Quốc Tế để điều tra và truy tố Đại Tá Gadhafi về
tội ác chống nhân loại. Ngày 3-3-2011, Công Tố Viên Luis Moreno-Ocampo
của Toà Án H́nh Sự Quốc Tế đă tuyên bố: “Nhà lănh đạo Libya Gadhafi cùng
các con trai và một số nhân vật thân cận sẽ bị điều tra vi phạm tội ác
chiến tranh chống lại loài người”. Ông nhấn mạnh: “Không ai được phép
tấn công và tàn sát thường dân… khi họ biểu t́nh ôn hoà”. Đây là một
cảnh báo nghiêm khắc cho những tên đầu sỏ Việt Cộng nếu chúng đàn áp gây
đổ máu trong Cuộc Cách Mạng Hoa Mai của đồng bào chúng ta tại Việt Nam
trong tương lai.
Đứng trước Cuộc Chiến Quốc Cộng trong giai đoạn một mất một c̣n hiện
nay, Băng Đảng Việt Cộng đang tung ra những đ̣n khủng bố khốc liệt đối
với những nhà hoạt động dân chủ trong nước bằng cách theo dơi, thẩm vấn,
bao vây, truy bức, bắt giam, bỏ tù, tạo ra những tai nạn giết người…
Nhưng thực tế cho thấy chúng càng điên cuồng khủng bố dă man bao nhiêu,
phong trào tranh đấu cho dân chủ, tự do trong nước càng phát triển vững
mạnh bấy nhiêu theo đúng quy luật: “ở đâu có đàn áp, ở đó có đấu tranh”.
Ngày 30-4-1975 là ngày mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đoạt được thắng lợi ở
điểm cao nhất. Nhưng cũng kể từ ngày này, uy tín của chúng đă tuột dốc
một cách thê thảm, không c̣n cách ǵ có thể gượng lại được nữa bởi v́
cái mặt nạ che đậy cái bản chất Việt gian bán nước của chúng đă rớt
xuống. Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày hôm nay chỉ c̣n là cái xác không hồn,
đă mất hết niềm tin của toàn dân Việt Nam kể cả đa số đảng viên cộng sản
như chúng đă thú nhận. Ngày hôm nay, Băng Đảng CSVN không c̣n khả năng
cai trị đất nước bằng luật pháp mà chúng chỉ khủng bố người dân bằng
công an và nhà tù. Đây là kiểu thống trị của quân man rợ. Chúng đă phải
thú nhận rằng hàng ngũ của chúng từ bên trên và từ bên trong đang tự
diễn biến, tự chuyển hoá để tự huỷ diệt. Tuy nhiên, với bản chất ngoan
cố không thể thay đổi được, chúng sẽ c̣n tiếp tục hô to khẩu hiệu: “Đảng
Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh Bách Chiến Bách Thắng Muôn Năm” cho tới 15
phút cuối cùng trước khi bị toàn dân Việt Nam mang ra xử tội như người
dân Romania đă xử tử vợ chồng Nicolea Ceausescu, chủ tịch đảng Cộng Sản
Romania, đă bị bắt lại sau khi t́m cách chạy trốn bằng trực thăng.
Đây là số phận tương lai dành những tên đầu sỏ Việt Cộng c̣n tiếp tục
ngoan cố!
Từ những phân tích trên đây, chúng ta có quyền tin tưởng một cách logic
rằng Cuộc Chiến Quốc Cộng đang đi vào giai đoạn kết thúc. Số phận của
Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ Việt Cộng đă được quyết định, vấn đề
c̣n lại chỉ là khi nào và bằng cách nào. Toàn dân Việt Nam trong và
ngoài nước sẽ thắng trận quyết định cuối cùng. Dân tộc Việt Nam sẽ được
hưởng một nền hoà b́nh công chính với đầy đủ nhân quyền và dân quyền. Và
để tiếp nối tính liên tục không gián đoạn của ḍng lịch sử chính thống
của dân tộc, nền Đệ Tam Việt Nam Cộng Hoà sẽ được toàn dân Việt Nam lựa
chọn phù hợp với chiều hướng vận động của ḍng lịch sử của dân tộc và
với xu thế dân chủ tự do của nhân loại văn minh.
Viết cho Tháng Tư
Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức/ Binh Chủng TT)