Tết
trong ngục tù cộng sản!
Đinh Văn Tiến Hùng

Tết là ngày trọng đại mang nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
nam.Tết gợi lên những vui tươi đầm ấm nhất của t́nh gia đ́nh, thân tộc và
bạn bè. Những với người tù chính trị Tết mất hết cả ư nghĩa trên.
Chỉ c̣n ba ngày nữa là Tết đến với chúng tôi, những người tù tại miền rừng
núi thâm sơn chướng khí giá lanh này, nên người địa phương có câu ‘Nước
Sơn la, ma Nghĩa lộ’.Hoa dại đang thi nhau phô sắc trên đỉnh núi mây mù
giăng toả mà chúng tôi gọi là’Cổng trời’. Đứng trên nh́n xuông phía dưới
chỉ toàn màu trắng đục. Ngồi trên phiến đá cùng người bạn tù, lấy hai củ
khoai ăn lót dạ sau khi leo lên tới đỉnh đă thấm mệt. Ăn xong vẫn c̣n thấy
bụng cồn cào, sợ không đủ sức làm, tôi nói với bạn :
- Chúng ta t́m quanh đây xem có ǵ ăn được không ?
- Ngoài măng c̣n ǵ nữa !
- Thôi cũng được, có c̣n hơn không.
Chúng tôi đứng lên kiếm một bụm măng non.Thật ra chẳng phải t́m kiếm khó
khăn,v́ đây là đỉnh vầu mọc nhiều hơn giang.Vầu là một loại giống cây tre,
nhưng to và dài hơn nhiều, người Sơn cước dùng làm máng dẫn nước từ trên
núi xuông bản làng. Măng vầu khi đă trồi khỏi mặt đất ăn rất đắng, nhưng
c̣n ch́m dưới đất ăn lại rất ngọt – nhiều người v́ quá đói và thèm chất
ngọt ăn nhiều bị sốt rét phù thủng – H́ hục đào bới măi mới moi lên mặt
đất một bụm măng bằng cổ tay. Đang ăn ngon lành anh bạn ngừng hỏi :
- Bạn trong ban tổ chức mừng Xuân, tối qua họp bàn có ǵ lạ không ?
- Truyền thống muôn đời không thay đổi.Văn nghệ đón Xuân, viết báo liếp
(làm ǵ có tường), mỗi người ba cái bánh chưng bằng ḷng bàn tay, ba gói
thuốc lá Tam đảo, Đồ sơn, thịt trâu già xào với rau lang.
- Thôi cũng được, có c̣n hơn không!
Tôi mỉm cười v́ câu nói chua xót hoà vốn của người bạn được nhắc lại. Sau
khi chặt đủ chỉ tiêu mỗi người 10 cây giang, chúng tôi chuẩn bị hạ sơn khi
ánh nắng đă lên cao,v́ buổi chiều c̣n phải về sớm chẻ lạt cung cấp cho nhà
bếp gói bánh.V́ đường dốc lại trơn trựơt không đủ sức vác cả bó xuông núi,
nên mỗi người khắc tên ḿnh vào từng cây. Đứng trên lao xuống và hô thật
lớn :
- Xuống cây ! Xuống cây !
Tiếng hô vang vọng núi đồi để bạn tù phia dưới biết mà tránh cho an toàn.
Khi lao hết số cây, chúng tôi men theo đường ṃn xuống núi, t́m đủ số cây
gom lại vác về trại. Khi băng qua ḍng suối chúng tôi dừng lại rửa mặt
chân tay. Tiếng nước chảy róc rách qua khe đá cùng với tiếng chày rơi đều
đều vào ḷng cối mà người Thiểu số đă lợi dụng sức nước chuyển động để giă
gạo. Bọn cán ngố gọi là ‘Chiếc chày tự giác’ mà người dân tộc nhờ ‘Đỉnh
cao trí tuệ’ của “cán bộ Bác Đảng hướng dẫn”, đă biết vận dụng thiên nhiên
thay cho sức người, cũng như chiếc xe ba gác kéo tay vang danh một thời
của nhân dân tỉnh Kiến an để biến sức người thay sức ngựa.
Tôi đang bực ḿnh v́ sự khoe khoang ngu dốt của những “đỉnh cao trí tuệ
loài người”, bỗng nghe tiếng cười vang của các cô gái Thái từ trên đỉnh
đồi đi xuống lấy nước. Khi nh́n thấy những người tù ốm yếu, rách rưới, các
cô e ngại dừng bước. Chúng tôi hiểu ư gật đầu làm hiệu rồi đi lên. Hai cô
gái c̣n rất trẻ, nước da trắng trẻo, mặc quần đen áo trắng có riềm màu sặc
sỡ nổi bật giữa núi đồi hoang dại. Nhưng với thân phận người tù có ‘tức
cảnh sinh t́nh’cũng đành để lắng đọng trong tâm hồn ḿnh. Theo đuổi những
ư nghĩ quên cả sức nặng bó giang đè trên vai áo rách, chúng tôi lầm lũi
theo con đường ṃn về trại mà đâu hay mùa Xuân đang về trên cây cỏ rừng
chiều hoang lạnh !
Chiều 30 Tết, khung cảnh trại tù được trang hoang sạch sẽ hơn mọi ngày.
Ngay chiếc cổng tre ra vào hàng chữ đỏ nổi trên tấm vải vàng :”Chúc mừng
năm mới “.Trước các lán (nhà), khẩu hiệu được treo lên theo chỉ thị như
:”Lao động là vinh quang – Vui Xuân không quên học tập lao động tốt- Xuân
về Bắc Nam xum họp, nhà nhà yên vui”.Trong hội trường phía trước là cờ đỏ
sao vàng với h́nh Hồ chí Minh. Phía trên là hàng chữ ‘Không có ǵ quí hơn
độc lập tự do’,dưới ảnh ‘Bác Hồ vĩ đại sống măi trong sự nghiệp chúng ta’.
Chung quanh hội trường treo những tờ báo liếp được cắt dán loạn xạ từ
những tờ báo “Liên sô, Nhân dân, Quân đội hay Sài g̣n giải phóng…” với đủ
các h́nh màu hí họa, các bài thơ và các câu châm ngôn của lănh tụ như:
“Hoà b́nh phát sinh từ ṇng súng (Mao chủ tịch) - Thiên tài chỉ có 10%, c̣n
90% nhờ lao động không ngừng (Lê-nin)- Không có ǵ qúi hơn độc lập tự do
(Hồ chủ tịch) - Xưa yêu phong cảnh thiên nhiên đẹp, Mây gíó trăng hoa tuyết
núi sông, Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Bác Hồ với văn thi sĩ miền Bắc) - Bàn tay ta làm nên tất cả, Có sức người
sỏi đá cũng thành cơm.”
(Tố Hữu) “ Mưa lớn coi như mưa nhỏ, mưa nhỏ coi như không mưa. Mỗi người
tích cực làm việc bằng hai” (Châm ngôn lao động trại).
Sở dĩ chúng tôi cóp nhặt tài liệu trong báo nhiều hơn là tự chế v́ đa số
anh em không muốn bộc lộ tâm tư ḿnh.
Tối 30 thay v́ tổ chức đón Giao thừa, “cán bộ” cho chúng tôi nghỉ lao động
sớm để chuẩn bị ngày mai đón Xuân mới. V́ thực ra nếu có tổ chức lấy ǵ mà
đón giao thừa. Pháo th́ không có. Đạn th́ phải để cho “bộ đội biên pḥng
ngăn giặc không đuợc bắn bậy”. Đồ ăn lại không có tiêu chuẩn cho đêm 30.
Khi ‘cửa chuồng ’(danh từ tù viên đặt để chỉ nhà tù bằng tre nứa hai tầng
giường giống chiếc chuồng gà khổng lồ) đóng lại, chúng tôi tụ tập từng
nhóm. Người nhắc lại những kỷ niệm vui buồn về Xuân, vài anh ca nhè nhẹ
những khúc nhạc Xuân quen thuộc. Nhóm Công Giáo quây quần quanh vị Tuyên
úy trẻ tĩnh tâm ít phút trước khi dự Thánh lễ giao thừa âm thầm khó nghèo
thật cảm động.
Khi tiếng cồng bằng trái bom vỡ vang dội núi rừng, trại tù hoàn toàn im
ĺm đen tối, nhường lại cho những âm thanh huyền bí núi rừng. Tiếng cựa
ḿnh của những bạn tù không ngủ, c̣n thao thức với những suy tư dằn vặt về
thân phận ḿnh và đồng bạn trong đêm Xuân đầu tiên biệt xứ. Giá lạnh sương
đêm dâng lên mỗi lúc một nhiều, cùng với cơn đói cồn cáo ruột gan bào ṃn
thân xác….
Sáng ngày mùng 1 Tết, không phải thức dậy 6 giờ như ngày thường và đuợc
miễn vác đá. V́ cứ mỗi sáng vừa nhảy xuống giường, đă nghe tiếng c̣i réo
gọi của những tên “quản giáo”, bắt mọi người lao xuống suối vác một tảng
đá chạy ngược lên đồi, xếp thành đống lớn chuẩn bị xây nhà tù biệt
giam.Việc làm này không được miễn ngay cả những ngày mùa đông mưa phùn gíó
bấc lạnh buốt da thịt, có lẽ cũng là tác dụng làm cho người tù tỉnh ngủ và
quên lạnh.
Mùng Một Tết được ngủ đến 8 giờ sáng, nhưng mọi người đă thức dậy. Không
khí trong pḥng xôn xao hơn ngày thường, tiếng chào gọi chúc nhau:’Chúc
năm mới khỏe mạnh! Chúc sớm xum họp với gia đ́nh!’ Tôi đi một ṿng chúc
các bạn tù. Riêng anh TĐB người bạn rất thân cùng Binh chủng LLĐB–mấy hôm
nay bị tiêu chảy c̣n quá yếu vẫn nằm trên giuờng.Tôi tiến đến vỗ nhẹ lên
người anh: “Chúc bạn sớm b́nh phục! Hăy cố gắng lên!’Anh khẽ gạt đầu rơm
rớm nước mắt. Anh B và tôi đă cùng sống với nhau qua nhiều trại tù miền
Bắc, cùng chia sẻ đắng cay tủi nhục để cố vượt qua mong có ngày trở về.
Rồi tôi chuyển trại vào Nam và được phóng thích trước anh mấy tháng. Khi
anh trở về chúng tôi vẫn liên lạc thường xuyên. Tôi sang Hoa kỳ định cư
trước anh. Những ngày đầu vội vă bận rộn mưu sinh nơi quê nguời, tôi chưa
kịp liên lạc cùng bạn bè nơi quê nhà, th́ một hôm đọc báo qua lời Phân ưu
mới biết anh đă vĩnh viễn ra đi. Ôi những năm tháng nghiệt ngă trong lao
tù anh đă gượng sống mong ngày trở về, nhưng anh lại nằm xuống khi những
ước vọng làm lại cuộc đời chưa thực hiện được….
Đúng 9 giờ cửa pḥng giam mở, sắp hàng lên hội trường. Các đội lần lượt
vào hội trường, trên tay mỗi người cầm một chiếc ghế tre để ngồi. Bọn “cán
bộ” và “vệ binh” cũng có mặt đông đủ, “quân phục” gắn “quân hàm” (cấp bậc)
và chúng không quên mang theo vũ khí. Một lát sau tên trại trưởng và cán
bộ ‘khung’ bước vào sau tiếng hô nghiêm, mọi người đứng dậy.
Buổi lễ bắt đầu bằng nghi thức “chào cờ và suy tôn lănh tụ”. Tiếp theo tên
chính trị viên đọc “thư chúc Tết của Chủ tịch Nước gửi đồng bào”. Một trại
viên (tù binh) đại diện đọc “thư chúc Tết cán bộ và toàn thể trại viên”
(bài được soạn sẵn theo ư của chính trị viên). Sau cùng tên trại trưởng
mang “quân hàm thiếu tá” vuốt áo ngay ngắn đứng lên, cất cao giọng thuộc
ḷng như vẹt :
“Nhân danh thủ trưởng trại, đại diện Nhà nước, Đảng và cán bộ trại, tôi
gửi lời chúc các anh trại viên một năm mới: học tập lao động tốt để sớm
xum họp với gia đ́nh. Nhà nước và Đảng luôn quan tâm đến các anh, đặc biệt
năm nay lần đâu tiên các anh đuợc hưởng một cái Tết tại miền Bắc với 30
năm’ tiến mau, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xă hội chủ nghĩa’. Miền Nam
gọi, miền Bắc thưa. Suốt 20 năm chống Mỹ cứu nước, miền Bắc là hậu phương
lớn chi viện cho miền Nam từ hạt gạo bẻ đôi, hạt muối cắn làm hai để mới
có như ngày hôm nay. Nam Bắc đă thống nhất, nhưng hậu quả của Mỹ-ngụy để
lại c̣n nặng nề cần phải cải tạo để miền Nam theo chân miền Bắc đi lên.
Các anh là những người lầm đường, đă tiếp tay phá hoại Đất nưóc.Tội các
anh trước nhân dân rất lớn, nhiều như lá rừng nước biển, nhưng các anh nếu
biết thành tâm hối cải, học tập lao động tốt sẽ được nhân dân và nhà nước
khoan hồng để sớm trở thành người công dân tốt, hữu ích cho gia đ́nh và
Đất nước….”
Gịong điệu này chúng tôi nghe đă quá chán không biết bao nhiêu lần mỗi khi
lên lớp học chính trị. Chúng tôi tự hỏi: Không biết “30 năm xây dựng XHCN
miền Bắc” như thế nào, mà xe chở tù chạy suốt dọc đường qua các phố thị,
làng mạc, chỉ thấy nhà cửa xiêu vẹo, ruộng vườn xác xơ. H́nh ảnh hai phụ
nữ gầy ốm xanh xao gồng người kéo cầy, cùng cụ già áo rách đẩy phía sau
làm tôi không sao quên đuợc. Những nhà cũ kỹ từ thời Pháp c̣n sót lại lên
mầu nâu xậm. Người đi bộ nhiều hơn xe đạp nơi các thành phố. Những ngôi
nhà thờ, chùa chiền vắng tiếng chuông v́ đă biến thành hợp tác xă nông
nghiệp hay chăn nuôi. Nhưng chẳng thấy lúa gạo, trâu ḅ, gà vịt đâu cả, có
lẽ “đă chi viện cho miền Nam hết rồi”. “Tiến mau, tiến mạnh, tiến vững
chắc” quá đến nỗi trẻ em không đuợc cắp sách đến trường, mùa đông ngồi
trước căn nhà lá xiêu vẹo với chiếc áo rách mong manh, trông nhà cho cha
mẹ đi “lao động XHCN”. Những cô gái dâng cả tuổi xuân “cho Bác và Đảng”
trong Nông trường tập thể. Bao thanh niên vượt Trường sơn vào Nam để chôn
xác nơi khe núi rừng sâu.
Măi suy tư tôi chẳng để ư tên “thủ trưởng” nói tiếp những ǵ cho tới khi
mọi người lục tục ra khỏi hội trường, mặt trời đă gần đứng bóng. Đội nhà
bếp thông báo anh em lănh tiêu chuẩn ba ngày Tết. Mỗi ngừoi ba bánh chưng
bằng ḷng bàn tay, ba gói thuốc lá hay thuốc lào. Phần ăn trưa: một chén
cơm “thực đơn cao cấp”, v́ ngày thường chỉ ăn khoai hay sắn, một chén thịt
trâu hầm (tính luôn cả xương và da), một chén rau lang xào với ba miếng
ḷng bằng đốt ngón tay và nước chè tươi không giới hạn tiêu chuẩn. Bữa ăn
của một gia đ́nh nghèo nhất tại miền Nam đón Xuân c̣n thịnh soạn hơn
nhiều, nhưng đối với người tù đây là biến cố để đời.
Tối mùng một Tết là chương tŕnh văn nghệ đặc biệt mừng Xuân do các tù
viên’ tự biên tự diễn’. Mở đầu là hoạt cảnh “Táo cải tạo du Xuân” do một
tù viên đóng vai Táo quân hia măo chỉnh tề. Ông Táo mặt mày hí hửng, tay
dắt xe đạp, vai mang cái “đài” (radio) và tay đeo chiếc “đồng hồ hai cửa
sổ” (những đồ này cán bộ vui vẻ cho mượn vui Xuân), lững thững bước ra,
vạch ống tay áo xem giờ, vặn đài rú lên, cúi chào tứ phía, rồi cất cao
giọng : “Tôi là Táo cải tạo, trước khi về chầu Ngọc Hoàng Thượng Đế tŕnh
tâu mọi việc của trại trong suốt năm qua. Xin chúc Quí cán bộ sống lâu
trăm tuổi, quí anh em trại viên học tập lao động tốt mau về đoàn tụ với
gia đ́nh..”
Đang thao thao, bỗng tiếng đài tít tít báo hiệu giờ điểm.Táo quân vội giơ
đồng hồ lên xem hốt hoảng: “Chết rồi, đă đến giờ về chầu Ngọc Hoàng, ta
phải khẩn trương không trễ mất, cũng may có cái xe đạp tranh thủ cũng c̣n
kịp.” Nói rồi dắt chiếc xe đạp chạy vào văng cả hia măo. Hội trường được
dịp tha hồ vỗ tay cười la hét cổ vũ. Có vài anh c̣n hô to ‘Bis ! Bis !’.
Bọn cán bộ cũng vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt. Nhưng chúng không ngờ màn
hoạt cảnh vừa rồi anh em đă nghiên cứu trước và được “cán bộ chính trị
thông qua” với mục đích chế diễu phong trào “3 Đê” của “cán bộ” miền
Bắc khi mới vào Nam sau 30/4/75 – đều ao ước có một chiếc xe Đạp mới, vai
mang cái Đài và tay đeo Đồng hồ hai cửa sổ.
Những màn tŕnh diễn tiếp theo gồm đơn ca, hợp ca, có cả vũ quạt, múa nón
do tù viên giả trai trông khá hấp dẫn. Cuối cùng là kịch vui ‘Xă Xệ, Lư
Toét du Xuân’gồm hai màn độc đáo. Xen kẽ c̣n có vọng cổ rất mùi…Buổi tŕnh
diễn kéo dài tới khuya mới chấm dứt.
Sáng mùng 2 lại được dậy trễ, tiếp tục các tṛ chơi như kéo giây, nhạy bị,
cướp cờ, chơi cờ tướng…Giải thưởng là báo ảnh, thuốc lào, thuốc lá và bánh
chưng.Tiêu chuẩn thực đơn giống ngày mùng 1. Nhân dịp vui Xuân cho phát
biểu ư kiến, chúng tôi đề nghị được thay đổi thực đơn và tăng thêm khẩu
phần cơm (v́ chỉ một chén cơm ăn vẫn c̣n đói) đă được cán bộ trả lời :”Nơi
miền rừng núi gạo rất hiếm, từ miền xuôi (đồng bằng) chuyển lên có định
mức nhất định.Thịt heo, gà,vịt cũng thiếu, chỉ có thịt trâu do đồng bào
thiểu số thông cảm chia bớt cho trại (thực tế đó là những con trâu già ốm
không c̣n cầy bừa nổi nên thịt dai như cao su).V́ thế không thể thay đổi.
Các anh chịu khó khắc phục đợi đến Xuân sau.
Tối mùng 2 Tết xem chiếu phim. Nhờ công lao vất vả của đội trực phải lặn
lội trên 10 cây số, gồng gánh khiêng vác máy và phim, vượt đồi lội suối
mượn từ huyện về, gồm 3 bộ phim ‘đặc sắc’ là: “Chiến thắng Điện biên –
Giải phóng miền Nam và bác Hồ với thiếu nhi”.
Trước khi chiếu, cán bộ văn hoá huyện có dịp đề cao tuyên truyền từng
phim. Phim th́ cũ rích, ráp nối nên hay đứt.Tiếng’ thuyết minh’ rời rạc
khó nghe, hoà với tiếng máy rè rè suốt 4 tiếng đồng hồ đưa nhiều tù viên
vào giấc mộng du Xuân, chỉ bừng tỉnh khi tiếng vỗ tay trổi lên sau mỗi
cuốn phim chấm dứt.
Cuộc vui nào rồi cũng qua mau, nhất là những cuộc vui gượng ép trong chốn
ngục tù lại càng qua mau hơn chẳng để lại chút ǵ vấn vương.
Tập tục dân tộc Việt nam là nghỉ ít nhất là 3 ngày Tết, có nhiều nơi tại
miền Nam kéo dài cả tuần với những Lễ Hội tưng bừng. Trong tù bọn cán bộ
nói cho nghỉ 3 ngày, nhưng đến ngày mùng 3 chúng bày tṛ truyền thống
‘trồng cây nhớ ơn Bác’. Chỉ tiêu mỗi người 100 hốc sắn đào trên đồi đá khô
cứng. Những tên cán bộ vờ vĩnh tham gia công tác, nhưng ở khu đất mềm
trước ban chỉ huy và mỗi tên lănh bao nhiêu hốc ai mà biết được, chỉ thấy
chừng 1 tiếng sau chúng đă phủi tay về trại. C̣n bọn chúng tôi h́ hục tới
5,6 giờ chiều mới xong.Về trại c̣n phải lo tổng vệ sinh để sáng mùng 4
tiếp rục đi lao động sản xuất cho “đủ chỉ tiêu và kịp thời vụ.”
Rửa tay chân xong về trại lănh khẩu phần mùng 3 Tết gồm hai củ khoai lang
và chén rau luộc chấm muối th́ trời đă tối. Đêm núi rừng xuống mau mang
theo giá lạnh gió núi sương rừng tê buốt cả thân xác và tâm hồn.Từng người
tù ngồi yên lặng trong bóng đêm, chậm chạp nhai từng miếng khoai như những
con trâu già nhai lại. Chúng tôi đang nghĩ về thân phận ḿnh và đặc biệt
các bạn tù bị biệt giam nơi hốc đá phía sau đồi, về cuộc vui giả tạo vừa
qua, về một chế độ coi con người thua thú vật. Tiếng từ điếu thuốc lào rít
lên của người bạn tù. Những đóm lửa lập loè ma quái của đầu điếu thuốc
đang cháy dở, mùi thơm thoang thoảng bay theo gió rừng.
Bụng càng cồn cào khi ăn hết hai củ khoai và chén rau rừng, tôi định bóc
chiếc bánh chưng thứ ba c̣n lại ăn nốt. Nhưng lại thôi v́ chợt nghĩ đến
ngày mai cần ‘bồi dưỡng’ cho một ngày lao động kiệt lực.Tôi giơ tay lên
vuốt mặt, không ngờ nước mắt ḿnh đă trào ra. Các bạn tù chắc cũng đang
mang một tâm trạng như ḿnh. Lúc mày tôi mới hiểu thấm thía câu “Nhất nhật
tại tù, thiên thu tại ngoại”./.
Đinh Văn Tiến Hùng
(Trích Nhật kư trong ngục tù Cộng sản)