*Chữ Tâm qua các Thi phẩm nổi tiếng*

 

 

 

 

 

*Thư nhàn đọc lại truyện xưa,

Chữ Tâm in dấu vẫn chưa phai mờ, 

Văn minh thời đại bây giờ,

Chữ Tâm rồi sẽ phai mờ dần thôi!

 

+Tâm trong truyện Kiều.

 

Truyện Kiều c̣n gọi là Đoạn Trường Tân Thanh, một kiệt tác trong thi ca Việt Nam do đại thi hào Nguyễn Du sáng tác, dựa theo cốt truyện Kim- Vân- Kiều truyện bằng văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân Trung Hoa.

 

Truyện gồm 3254 câu thơ Lục bát, nhân vật chính là Thúy Kiều, xoay quanh nàng là Thúy Vân, Kim Trọng, Vương  Quan, Thúc Sinh, Hồ Tôn Hiến, Sư Giác Duyên… cùng những nhân vật đă đi sâu vào tập tục đời sống dân gian thấp thoáng đâu đây: Anh hùng như Từ Hải- Sợ vợ có Thúc Sinh- Ghen tuông sánh Hoạn Thư- Bỉ ổi giống Tú Bà- Lừa lọc giống Sở Khanh và Mă Giám Sinh…

 

Truyện Kiều được nhiều tác giả ca tụng như Trần Trọng Kim chú giải chi tiết, Đào Duy Anh soạn cuốn Tự điển Kiều và  nhiều bài biên khảo công phu của  Lê văn Ḥe, Ngô Minh Trực, Minh Phiến, Phan Ngọc…Riêng học giả Phạm Quỳnh đă khẳng định:

“Truyện Kiều c̣n, tiếng ta c̣n, tiếng ta c̣n nước ta c̣n.”

 

-  Trong dân gian, người ta truy t́m, bảo tồn di sản về Kiều, họa tranh, vịnh Kiều, viết nhạc kịch, đối, bói Kiều…Truyện Kiều được dịch sang nhiều thứ tiếng như một danh tác, trong đó có nhà thơ Pháp Rene Crayssac đă chuyển dịch qua thơ Pháp.

 

Nhưng hơi khác biệt, Nguyễn Công Trứ nhà thơ chí nam nhi thích cuộc sống ‘tang bồng hồ thỉ’ và làm trai ‘Trong lăng miếu trổ tài lương đống-Ngoài biên thùy rạch mũi can tương’, nên lúc mọi người ca tụng, lại hạ bút phê b́nh cuộc đời nàng Kiều trong bài Vịnh Kiều. Phải chăng Uy Viễn tướng công quá khắt khe với nàng Kiều qua 15 năm lưu lạc gian truân?

 

Vịnh Thúy Kiều

 

Đă biết má hồng thời phận bạc,

Trách Kiều nhi chưa vẹn tấm ḷng vàng.

Chiếc quạt, thoa đành phụ nghĩa Kim lang,

Nặng v́ hiếu, nhẹ v́ t́nh th́ cũng phải.

Từ Mă Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải,

Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu,

Bấy giờ Kiều c̣n hiếu vào đâu,

Mà bướm chán ong chường cho đến thế!

Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa,

Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.

Bán ́nh trong bấy nhiêu năm,

Đố đem chữ hiếu mà lầm được ai!

Nghĩ đời mà ngán cho đời.

 

Nhưng bài viết không đi sâu về tôn giáo, triết lư và văn phong, chỉ chú trọng về chữ Tâm hơn.

 

Truyện Kiều có thể tóm gọn trong 2 chữ nổi bật là TÀI và TÂM.

 

Tài đi kèm với sắc chứng minh cho thuyết ‘Tài mệnh tương đố’.

 

Tâm được diễn tả qua 4 cung đàn trong những thời gian, hoàn cảnh và đối tượng khác nhau.

 

Tài sắc Kiều trổi vượt hơn cả ‘Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa‘ và ‘Trời xanh cũng phải nổi ghen‘:

 

-Làn thu thủy, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm, liễu hơn kém xanh,

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Sắc đành đ̣i một, tài đành họa hai,

Thông minh vốn sẵn tư trời,

Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm,

Cung thương lầu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương,

Khúc nhà tay lựa nên xoang,

Một thiên bạc mệnh lại càng năo nhân.

 

Cuộc đời trôi nổi của nàng Kiều từ khi bán ḿnh chuộc cha trải qua bao biến đổi vui buồn, tủi nhục, cô đơn, vinh hoa, hạnh phục đủ mùi…chính là chữ Tâm kéo dài chứng minh cho thuyết ‘Tài mệnh tương đố - Hồng nhan bạc mệnh- mà cụ Nguyễn Du đă báo trước ngay phần mở đầu thi phẩm:

 

-Trăm năm trong cơi người ta,

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau,

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đơn ḷng,

Lạ ǵ: bỉ sắc tư phong,

Trơi xanh quen thói má hồng đánh ghen.

 

Rồi từ lúc rơi lệ trước nấm mộ hoang lạnh Đạm Tiên, h́nh bóng ấy đă nhập vào hồn Kiều:

 

-Ḷng đâu sẵn mối thương tâm,

Thoạt nghe Kiều đă đầm đầm châu sa,

Đau đớn thay, phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

 

Trước hết hăy nói về đức Hiếu Tâm của Kiều hy sinh bán ḿnh chuộc cha:

 

-Duyên hội ngộ, đức cù lao,

Bên t́nh, bên hiếu bên nào nặng hơn?

Để lời thệ hải minh sơn,

Làm con trước phải đền ân sinh thành,

Quyết t́nh, nàng mới hạ t́nh,

Rẽ cho để thiếp bán ḿnh chuộc cha.  

 

Rồi sau này khi Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường cho hết kiếp tài sắc đoạn trường, được người từ tâm là sư Giác Duyên, sư Tam Hợp và ngư ông cứu vớt:

 

-Kiều từ gieo xuống duênh ngân,

Nước xuôi bỗng đă trôi dần tận nơi,

Ngư ông kéo lưới vớt người,

Ngẫm lời Tam Hợp rơ mười chẳng ngoa,

Trên mui lướt mướt áo là,

Tuy dầm hơi nước, chưa ḷa bóng gương,

Giác Duyên nhận rơ mặt nàng,

Hăy c̣n thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.

 

 Cung Đàn Bạc Mệnh do chính Kiều sáng tác cứ bám theo suốt cuộc đời nàng qua 4 lần dù hoàn cảnh và nhân vật có đổi thay, nhưng vẫn tâm tư uẩn khúc bên ḿnh:

 

-Đàn cùng Kim Trọng là chữ Tâm và t́nh yêu trai gái, dù t́nh cảm dạt dào vẫn phải ǵn vàng giữ  ngọc thuở ban đầu:

 

Trong như tiếng hạc bay qua,

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời,

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.

Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,

Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu,

Khi tựa gối, khi cúi đầu,

Khi ṿ chin khúc, khi chau đôi mày.  

 

-Đàn hầu rượu Thúc Sinh & Hoạn Thư là chữ Tâm và t́nh cảm phu thê, tuy ghen tuông vẫn ra vẻ con nhà gia giáo quyền thế:

 

Rằng: “Hoa nô đủ mọi tài,

Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.”

Nàng đà tán hoán, tê mê,

Vâng lời ra trước b́nh the vặn đàn.

Bốn dây như khóc như than,

Khiến người trên tiệc cũng tan nát ḷng,

Cùng trong một tiếng tơ đồng,

Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.

 

-Đàn trước Tổng đốc Hồ Tôn Hiến là chữ Tâm và lư lẽ thường t́nh, khi đă sa cơ thất thế:

 

Bắt nàng thị yến dưới màn,

Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.

Một cung gió thảm mưa sầu,

Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.

 

-Đàn tái hồi cùng Kim Trọng là chữ Tâm và đạo nghĩa t́nh yêu, giữ cho vẹn tṛn trước sau:

 

T́nh xưa lai láng khôn hàn,

Thong dông lại hỏi ngón đàn ngày xưa.

Nàng rằng:” V́ mấy đường tơ,

Lẩm người cho đến bây giờ mới thôi!

Ăn năn th́ sự đă rồi,

Nể ḷng người cũ vâng lời một phen.”

Phím đàn d́u dặt tay tiên,

Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa,

Khúc đâu đầm ấm dương ḥa,

Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh?

…..

Lọt tai nghe suốt năm canh,

Tiếng nào mà chẳng năo nùng xôn xao.

Chàng rằng:” Phổ ấy tay nào?

Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?

Tẻ vui bởi tại ḷng này,

Hay là khổ tận, đến ngày cam lại?”

 

Đến đây, ta sẽ ngạc nhiên thấy Kiều từ chối kết hôn với Kim Trọng, v́ trong chế độ phong kiến xưa trai có thể năm thể bảy thiếp là lẽ thường t́nh. Nhưng nàng lại muốn giữ nét đẹp cho trọn vẹn đôi bề:

 

-Nàng v́ chút nghĩa bấy lâu,

Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai,

Một nhà phúc lộc gồm hai,

Ngh́n năm dằng dặc, quan giai lần lần,

Thừa gia chẳng hết nàng Vân,

Một cây cù mộc, một sân quế ḥe,

Phong lưu phú quí ai b́,

Vườn xuân một cửa, để bia muôn đời.

 

Kết thúc truyện Kiều người thiện tâm được đền bù: Kim- Kiều tương phùng -Kẻ ác tâm bị trừng phạt: Kiều dưới trướng tướng công Từ Hải ân đền oán trả.

 

Tố Như tiên sinh gởi tâm t́nh trong truyện nhắc bảo người đời sống thuận ư trời phải coi trọng chữ Tâm hơn chữ Tài:

 

Ngẫm hay muôn sự tại trời,

Trời kía đă bắt làm người có thân,

Bắt phong trần, phải phong trần,

Cho thanh cao, mới được phần thanh cao,

Có đâu thiên vị bên nào,

Lại cho tài sắc dồi dào cả hai,

Có tài mà cậy chi tài,

Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Đă mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần Trời xa,

Thiện căn ở tại ḷng ta,

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài.

 

 

+Tâm trong Chinh Phụ Ngâm.

 

Tác phẩm Chinh Phụ Ngâm do Đặng Trần Côn sáng tác bằng Hán văn gồm 476 câu theo thể thơ Trường đoản cú (câu dài câu ngắn)

 

 

Nữ sĩ Đoàn thị Điểm dịch sang chữ Nôm dưới thể thơ Song thất lục bát. Bà giỏi thơ văn, có tài ứng đối thông minh nhanh nhẹn, sáng tác nhiều thơ văn khiến nhiều người nể phục, gọi biệt hiệu Hồng Hà nữ sĩ.

 

Truyện bày tỏ nỗi cô đơn lẻ loi của người chinh phụ có chồng đang chinh chiến ngoài biên ải xa.

 

Ngay phần mở đầu ta đă thấy xuất hiện thuyết ‘Tài mệnh tương đố- Hồng nhan bạc mệnh’ giống như truyện Kiều:

 

-Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên,

Xanh kia thăm thẳm từng trên,

V́ ai gây dựng cho nên nỗi này?

 

Sau khi tiễn đưa chồng đi chinh chiến, chinh phụ trở về ḷng buồn vời vợi, hối tiếc ḿnh không được

Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền, bằng ngựa hay thuyền để theo chàng:

 

-Đưa chàng ḷng dặc dặc buồn,

 

Nước trong chảy, ḷng phiền chẳng rửa,

Cỏ xanh thơm, dạ nhớ khó quên,

Nhủ rồi tay lại trao liền,

Bước đi một bước lại vin áo chàng.

 

Nhưng người cô phụ lại mang tâm trạng tưởng chừng như trái ngược. V́ song song với niềm tâm sự thương nhớ chồng, cùng vất vả một thân nuôi già dạy trẻ, lại dâng lên trong ḷng nàng niềm tự hào có người chồng dũng tâm, chí khí hiên ngang, coi cái chết nhẹ tưa lông hồng, lo việc nước trước việc nhà:

 

-Chí làm trai dặm ngh́n da ngựa,

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao,

Giă nhà đeo bức chiến bào,

Thét roi cậu Vị ào ào gió thu.

 

Từ ngày chàng ra đi nàng trở về cô pḥng lạnh lẽo, tâm sự  sầu héo với ánh đèn hiu hắt:

 

-Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Ḷng thiếp riêng bi thiết mà thôi,

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương.

 

Ḷng sầu buồn đến nỗi quên cả tô bồi giữ ǵn nhan sắc, yếu tố cần thiết của người phụ nữ:

 

-Hà như ai hồn say bóng lẫn,

Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không,

Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,

Lệch làn tóc rối, lỏng ṿng lưng eo.

 

-Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

Gương gượng soi lệ lại chứa chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

 

Người buồn cảnh vật buồn theo, thật đúng như lời cụ Tiên Điền mô tả trong truyện Kiều: ‘Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ‘:

 

-Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hoa phất phơ rũ bóng bên thềm,

Khắc giờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.

 

-Hoa giăi nguyệt, nguyệt in từng tấm,

Nguyệt lồng hoa, hoa thảm từng bông,

Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa dưới nguyệt trong ḷng xót đau.

 

Non sông vẫn c̣n bao trùm lửa khói chiến tranh, chàng chưa thể trở về xum họp gia đ́nh.  Nàng càng mong nhớ, càng thấy thời gian kéo dài trong cô đơn buồn tủi:

 

-Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đ̣i phen.

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm thường đă có đèn biết chăng?

 

-Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,

 Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca,

Nay quyên đă giục oanh già,

Ư nhi lại gáy trước nhà líu lo.

 

Thương thân phận ḿnh bao nhiêu, lại nhớ thương chồng ngoài chiến địa bấy nhiêu:

-Chàng từ khi vào nơi gió cát,

Đêm trăng này nghỉ mát phương nao,

Xưa nay chiến địa dường bao,

Nỗi không muôn dặm xiết bao hăi hùng!

 

-Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,

Ba thước gươm, một cỗ nhung yên,

Xông pha gió băi trăng ngàn,

Tên reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành,

Áng công danh trăm đường rộn ră,

Những nhọc nhằn nào đă nghỉ ngơi,

Nỗi ḷng biết ngỏ cùng ai,

Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.

 

 

Mộng mơ và thực tế khác nhau xa, thế mà đôi khi ta lại biến giấc mơ thành hiện thực, như người chinh phụ đă thực hiện làm cái bóng theo sát bên chồng.

 

Đây thật là tấm ḷng trung t́nh, không phải là mối t́nh si vô vọng:

 

-Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,

Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên,

Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền,

Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn toàn.

 

Như truyền thống trong đa số các truyện cổ xưa đều có hậu: gương vỡ lại lành, đoàn viên xum họp, lương duyên tái hợp, lập công hiển hách, ân đền oán trả, thù hận bỏ qua…mà ta thấy nơi truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Bích Câu Kỳ Ngộ, Nhị Độ Mai…V́ thế những nhân vật chính dù đă qua nhiều khổ ải éo le, vẫn hy vọng sẽ có một tương lai bừng sáng. 

Và Chinh Phụ Ngâm cũng không ra ngoài truyền thống đó:

 

-Sẽ rót vơi lần lần từng chén,

Sẽ ca dần ren rén đ̣i liên,

Liên ngâm đối ẩm đ̣i phen,

Cùng chàng sẽ kết mối duyên đến già. 

Cho bơ lúc xa sầu cách nhớ,

Giờ gần nhau vui thuở thanh b́nh,

Ngâm nga mong gởi chữ t́nh,

Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.

            

+Tâm trong Cung Oán Ngâm Khúc.

 

Truyện Cung Oán Ngâm Khúc do Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều sáng tác gồm 356 câu thơ Song thất lục bát với nhiều điển tích làm tăng thêm ư nghĩa và phong phú từng ḍng thơ.

 

Đây là một áng văn độc thoại nội tâm bày tỏ tâm trạng nỗi đau đớn của người cung phi sau khi được vua ưu ái, rồi lại chán chê ruồng bỏ nơi cung cấm cô đơn lạnh lẽo.

 

Ôn Như Hầu sống vào thời quan lại nhiễu nhương, vua chúa dâm loạn trác táng, ông đă đem h́nh ảnh người cung phi đại diện cho nữ giới bị dùng như một đồ chơi để thỏa măn thú tính bọn người trụy lạc, nhất là các quân vương. Đồng thời cũng nói lên triết lư: Hồng nhan bạc mệnh- Thuyết Định mệnh và cuộc đời phù du ảo mộng của con người.

 

Thuyết Hồng nhan bạc mệnh xuất hiện ngay phần mở đầu với những câu thơ buồn ảm đạm:

 

-Trải vếch quế gió vàng hiu hắt,

Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng,

Oán chi những khách tiêu phong,

Mà sui mệnh bạc nằm trong má đào.

 

Một sắc đẹp chim sa cá lặn, nghiêng nước đổ thành khiến những mỹ nhân nổi tiếng hay chị Hằng Nga cũng phải ngỡ ngàng:

 

 -Ch́m đáy nước cá lừ đừ lặn,

Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa,

Hương trời đắm nguyết say hoa,

Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật ḿnh.

 

Tài sắc ấy làm mê mệt ḷng người, lôi cuốn biết bao nam nhi tài tử mong được cận kề:

 

-Tái sắc đă vang lừng trong nước,

Bướm ong càng xao xác ngoài hiên,

Tai nghe nhưng mắt chưa nh́n,

Bệnh Tề Tuyên đă nổi lên đùng đùng.

 

Sắc đẹp được ḷng quân vương cùng say mê trong cảnh ái ân suốt canh trường:

 

-Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt,

Ḷng quân vương chi chút trên tay,

Má hồng không thuốc mà say,

Nước kia muốn đổ, thành này muốn long.

 

 Dưới trướng quân vương có hàng trăm, hàng ngàn người đẹp, như món ăn cần thay đổi cho hợp khẩu vị, nên nhan sắc dẫu chưa tàn phai cũng bị dă tâm ruồng bỏ không thương tiếc:

                                                                                

-Ai ngờ bỗng một năm một nhạt,

Nguồn cơn kia chẳng tát mà vơi,

Suy di đâu biết cơ trời,

Bỗng không mà hóa ra người vị vọng.

 

H́nh ảnh người cung phi vịn tường bước lần trong bóng đêm cô pḥng lạnh buốt thật tủi phận thương tâm:

-Đêm năm canh lần nương vách quế,

Cái buồn này ai dễ giết nhau,

Giết nhau chẳng cái lưu cầu,

Giết nhau bằng cái ưu sầu độc chưa!

 

Số phận nguồn cơn bạc bẽo, chỉ c̣n biết than thân oán trách định mệnh do trời bày đặt:

 

-Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,

Chết đuối người trên cạn mà chơi,

Ḷ cừ nung nấu sự đời,

Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.

 

Bây giờ mới giật ḿnh thấy cuộc đời chỉ là phù du ảo mộng:

 

-Thảo nào khi mới chôn nhau,

Đă mang tiếng khóc ban đầu mà ra,

Khóc v́ nỗi thiết tha sự thế,

Đă bày tṛ băi bể nương dâu.

 

Thôi định mệnh sắp đặt trước rồi, ḷng buồn cũng đành chấp nhận duyên số hẩm hiu sống những năm tháng dài c̣n lại nơi cô pḥng:

 

-Đêm phong vũ lạnh lùng có một,

Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh,

Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh,

Vách sương nghi ngút, đèn xanh lờ mờ!

 

+m trong Lục Vân Tiên.

 

Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm trường thi viết bằng chữ Nôm của cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu gồm 2082 câu thơ Lục bát b́nh dân mộc mạc, nhưng lại chiếm vị trí đặc biệt trong văn học Miền Nam với những nội dung chính:

 

-Trọng t́nh nghĩa với cha mẹ, con cái, vợ chồng, bạn hữu.

-Tinh thần nghĩa hiệp: Lục Vân Tiên đánh bọn cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.

-Thực hiện khát vọng: Thiện thắng tà- Thiện Tâm thắng Ác Tâm.

  

Truyện đề cao đạo lư làm người phản ảnh qua nhiều nhân vật trong mọi tầng lớp xă hội như một kịch bản trường đời trùm phủ với chữ Tâm:

 

- V́ Hiếu Tâm mà Lục Vân Tiên thương khóc mẹ đến mù đôi mắt.                                                                         - = - Thành Tâm với t́nh nam nữ tương kính nhau như Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. 

- Tâm kính giữa t́nh thày tṛ và chủ tớ.

- Hảo Tâm cùng bạn hữu như Vương Tử Trực và Hớn Minh.  

- Thiện Tâm qua hành động cứu người của Tiều phu, Ngư Ông, Chủ quán, Kim Liên. 

- Ác Tâm như cha con Vơ Thể Loan, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm, bọn cướp Sơn Đài, Lang băm, Thày bói, Thày pháp, Thái sư.

 

Mở đầu thi phẩm tác giả đă nêu cao chữ Nhân Tâm đạo nghĩa làm người qua truyện tích Tây Minh của Trương Tải bàn về chữ hiếu và Tâm đạo:

 

-Trước đèn xem truyện Tây Minh,

Gẫm cười hai chữ nhân t́nh éo le,

Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,

Giữ răn việc trước lánh dè thân sau,

Trai thời trung hiếu làm đầu,

Gái thời tiết hạnh làm câu trau ḿnh.

 

Tôn sư trọng đạo, thày đem tâm huyết dạy bảo tṛ, tṛ tôn kính thày luôn ghi ơn và nhớ lời thày giáo huấn:

 

-Vân Tiên vội vă tạ ơn,

Trăm năm dốc giữa keo sơn một lời,

Ra đi vừa rạng chân trời,

Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.

 

Nam nhi chí khí đứng giữa nhân quần xă hội, thấy sự bất b́nh không dám can ngăn sao xứng đáng gọi là anh hùng, v́ thế  Vân Tiên đă ra tay đánh bọn cướp Sơn Đài cứu Kiều Nguyệt Nga:

 

-Nay ta đă rơ nguồn cơn,

Nào ai tính thiệt, so hơn làm ǵ,

Nhớ câu kiến ngăi bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.                                                                                                                   

 

Sau khi đối thơ tặng vật làm tin, nàng trở về thăm cha, chàng gặp Hớn Minh, nhưng không đánh giá vẻ bên ngoài vẫn nhận ra là người bạn tốt sau này:

 

-Vân Tiên biết kẻ chính tà,

  Hễ người dị tướng ắt là tài cao,

Chữ rằng bằng hữu chi giao,

T́nh kia đă gặp lẽ nào làm khuây.

                                                                                                                                                                                      Chữ hiếu cao dầy, làm con không thể quên ơn sinh thành dưỡng dục, chàng vội vàng về bái biệt song thân trước khi lên đường ứng thi:

 

-Vân Tiên qú lạy thưa rằng:

Chẳng hơn người cổ, cũng bằng người kim,

Dám xin cha mẹ an tâm,

Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi.

 

Và tâm thành như Vương Tử Trực t́nh bạn keo sơn thắm tiết, tưởng Vân Tiên đă chết ngậm ngùi khóc thương bạn:

-Cùng nhau chịu đặng vuông tṛn,

Người đà sớm thác, ta c̣n làm chi?

Trong đời mấy bậc cố tri,

Mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm!                 

 

 Nhưng thật ra hai  thày tṛ Vân Tiên bị hại bởi lang băm, thày bói, thày pháp lừa bịp, rồi lại bị hai tên bạn ác tâm Bùi Kiệm-Trinh Hâm bắt trói tiểu đồng và xô Vân Tiên xuống sông may  có ngư ông cứu vớt, c̣n tiểu đồng cũng được người giải thoát:

 

-Vân Tiên ḿnh lụy giữa ḍng,

Giao long d́u dắt vào trong bực rày,

May vừa trời đă sáng ngay,

Thuyền chài xem thấy vớt ngay lên bờ.

 

C̣n về phần cha con Vơ Thể Loan biết Vân Tiên bị mù, đă thay ḷng đổi dạ, khi nghe Vương Tử Trực đậu thủ khoa lại muốn kết nghĩa hai họ Vương Vơ, nhưng bị Trực từ chối mắng chửi thậm tệ là tráo trở gian tâm:

 

-Trực rằng ng̣i viết đĩa nghiên,

Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau,

Vợ Tiên là Trực chị dâu,

Chị dâu em bạn dám đâu lỗi ngh́.

 

Trong khi Nguyệt Nga tưởng Vân Tiên đă chết, thủ tiết thờ tượng chồng, bác lời cầu hôn của cha con Thái Sư khiến ông uất hận định đem Nguyệt Nga cống cho giặc Phiên, nhưng nàng được t́ nữ Kim Liên có tấm ḷng bao dung thay thế:

 

-Đốc quan xe giá sửa sang,

Kiệu trương long phụng rước nàng về Phiên.

Nào hay t́ tất Kim Liên,

Đặng làm hoàng hậu nước Phiên một đời.

 

Vân Tiên nhờ thuốc tiên chữa sáng mắt, về nhà thăm cha, tế kính mẹ, thi đậu trạng nguyên rồi cùng phó tướng Hớn Minh dẹp giặc Ô Qua, xóa bỏ thù cũ, trùng phùng duyên xưa.

 

Trường đời lúc thịnh lúc suy, ḷng người thay trắng đổi đen, cụ Đồ Chiểu đă mượn lời chủ quán gởi tâm t́nh thương ghét tṛ đời qua h́nh ảnh những nhân vật trong cổ sử:

 

-Quán rằng: ghét việc tầm phào,

Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm,

Ghét đời Kiết Trụ đa dâm,

Để dân đến nỗi sa hầm xảy hang,

Ghét đời U Lệ đa đoan,

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

 

-Thương là thương Đức Thánh Nhân,

Khi nơi Tống,Vệ ; lúc Trần lúc Khuông,

Thương thày Nhan Tử dở dang,

Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh,

Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hán mạt đă đành phôi pha.

 

Kết truyện là ca khúc khải hoàn, loan phụng ḥa duyên, ngựa anh đi trước vơng nàng theo sau:

 

-Trạng nguyên về đến Đông Thành,

Lục ông trước đă xây dinh ở làng,

Bày ra sáu lễ sẵn sàng,

Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga,

Sui gia đă xứng sui gia,

Rày mừng hai họ một nhà thành thân,

Trăm năm biết mấy tinh thần,

Sinh con sau nối gót lân đời đời.

 

* TÂM TRONG NHỊ THẬP TỨ HIẾU. 

Nhị thập tứ Hiếu là 24 gương Hiếu thảo.

 

 

Đây là 24 gương Hiếu Thảo của người xưa bên Tàu. Nhà văn Quách Cự Nghiệp (1277-1367) đời nhà Nguyên sưu tầm và biên soạn, truyền qua nước ta.

 

Ở Việt Nam, Ông Lư văn Phức (1785-1849),  đậu Cử Nhân, làm quan dưới 3 triều vua nhà Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, là một nhà Nho chủ trương đạo đức, liền dịch truyện Nhị thập tứ Hiếu của Quách cự Nghiệp ra thơ song thất lục bát, để truyền bá và răn dạy người đời.

 

    Ta có thể nói Nhị Thập Tứ hiếu là 24 tâm hồn cao đẹp, những tấm gương cho con cái đền ơn và phụng dưỡng cha mẹ hết ḷng như vài nhân vật tiêu biểu sau:

 

-Ngu Thuấn dù là vua vẫn luôn săc sóc cha mẹ khiến trời cũng cảm động.

-Lăo Lai tử tuổi đă 70 c̣n nhảy múa ca hát làm vui ḷng song thân.

-Lục Tĩnh đi ăn tiệc giấu quit đem về cho mẹ.

-Dương Hương hy sinh mạng sống giết hổ để cứu cha.

-Mẫn Tử Khiên trời mùa đông buốt lạnh đẩy xe cho cha bị lật đổ, cha biết vợ kế không cho Mẫn Tử mặc đồ ấm. Cha định đuổi mẹ kế đi, ông năn nỉ cha xin cho d́ ghẻ ở lại.

-Giang Cách làm thuê nuôi mẹ.

-Châu Thọ Xương từ quan đi t́m mẹ.

………………………

-Mở đầu Nhị thập Tứ Hiếu, dịch giả Lư văn Phức viết:


Người tai mắt đứng trong Trời

Ai là không cha mẹ sinh thành?

Gương treo Đất nghĩa Trời kinh,

Ở sao cho xứng chút t́nh làm con

Chữ hiếu niệm cho tṛn một tiết,

Th́ suy ra trăm nết đều nên.

Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,

Hiếu hai mươi bốn thơm ngh́n muôn thu.

 

 

    +Xin trích dẫn nguyên văn một truyện sau:            

 

Tử Lộ

 

Tử  Lộ, tự là Trọng Do, người ở ấp Biện nước Lỗ, là học tṛ giỏi của Đức Khổng Tử. Nhà nghèo, Tử  Lộ thường phải đi đội gạo rất xa đem về nuôi cha mẹ mà không nệ hà cực nhọc. Không tiền mua thức ăn, ông đi hái rau lê rau hoắc  nấu canh dâng lên cha mẹ dùng đỡ.

 

Sau khi cha mẹ mất, ông qua nước Sở được vua Sở trọng dụng, ban cho quan tước và bổng lộc cao sang. Trong cảnh phú quí vinh hoa, ông thường nhắc đến cha mẹ và lấy làm tiếc là cha mẹ không c̣n sống để cùng vui hưởng cảnh giàu sang, nên Tử Lộ than rằng: Nay muốn ăn rau lê rau hoắc, đội gạo như trước chẳng được nữa, v́ cha mẹ đă mất.

 

     Khổng Tử khen Tử  Lộ là người thận trọng và chí hiếu.

                                              

 

Thầy Tử Lộ cũng người nước Lỗ,

Thờ hai thân từng bữa canh lê.

Thường khi đội gạo đi về,

Xa xôi trăm dặm nặng nề hai vai.

Đỉnh huê biểu từ khơi bóng hạc,

Gót Nam du nhẹ bước tang bồng.

Xe trăm cỗ, thóc muôn chung,

Ngồi chồng đệm ghép ăn chồng vạc cao.

Thân phú quí ngắm vào thêm tủi,

Đức cù lao chạnh tới càng đau.

Nào khi đội gạo canh rau,

Muốn c̣n như cũ dễ hầu được ru!

Ḷng thắc mắc ngh́n thu vẫn để,

Biết bao giờ cam chỉ đền công.

Cho hay dạ hiếu không cùng,

Dẫu Tam Công chẳng đổi ḷng thần hôn.

 

*Đôi ḍng tâm bút kết thúc:

 

Với kiến thức giới hạn, người viết không đi sâu vào lănh vực văn từ và tiểu sử như nhiều bài biên khảo các học giả đă thực hiện. Mục đích chỉ muốn t́m hiểu tâm tư người xưa ẩn chứa trong một số thi phẩm nổi tiếng tiêu biểu nêu trên. Qua những ḍng thơ dẫn chứng mong t́m được bài học giá trị trong cuộc sống ở đời. Cũng xin một số tác giả thông cảm, nếu người viết có mượn ư hay trùng hợp ngoài ư muốn.

 

Xin mượn 4 câu thơ kết thúc Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du để dừng bút bàn về chữ TÂM:

 

-Thiên căn ở tại ḷng ta,

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài,

Lời quê chắp nhặt dông dài,

Mua vui cũng được một vài trống canh. 

 

Mong thông cảm những điều thiếu sót! Tâm thành cảm ta!

 

 

Đinh Văn Tiến Hùng

 

 

 

     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính