Trận đánh cuối cùng
Đào Vũ Anh Hùng
Người Việt Utah
– Ngày 13 tháng 6, 1996, hăng thông tấn Reuter
đánh đi một bản tin về Nguyễn Thành Trung, phi công A-37 của Không Lực
VNCH đă lấy máy bay xạ kích dinh Độc Lập và hướng dẫn hai chiếc A-37 khác
đánh phá phi trường Tân Sơn Nhất chiều ngày 24 tháng 4, 1975, ngày hấp hối
của miền Nam Việt Nam.
Di tản ngày 29 tháng 4, 1975, tấm h́nh tác giả chụp từ trên cockpit
của chiếc trực thăng cảnh
phu nhân tác giả đang bế cháu thứ nh́,
Quỳnh Hà, 11 tháng tuổi
cùng một vài bạn đồng đội chở ra
đáp Đệ Thất Hạm Đội buổi
trưa ngày 29 tháng 4.
Bản tin cho biết, Nguyễn
Thành Trung, phi công chiến đấu của KLVNCH được huấn luyện tại Hoa Kỳ từ
năm 69 tới 72, là hoa tiêu trưởng phi cơ của Hàng Không Việt cộng, năm
1995, đă lái chiếc Boeing 767 chở tên chủ tịch nhà nước Lê Đức Anh qua New
York dự ngày kỷ niệm thứ 50 của Liên Hiệp Quốc. Trả lời cuộc phỏng vấn của
thông tín viên Reuter tại Tân Sơn Nhất, Nguyễn Thành Trung kiêu hănh nói,
“Năm ngoái tôi bay trở lại Hoa Kỳ, đến Nữu Ước bằng chiếc phi cơ này, đáp
tại phi trường Kennedy với máy bay riêng của chúng tôi, mang huy hiệu và
sơn cờ riêng của chúng tôi, đến thẳng đất Mỹ!” (Last year, I flew back to
America, to New York, in this aircraft, with our logo, with our flag, to
the American land, he says proudly - Reuter).
Nguyễn Thành Trung, tên Việt cộng nằm vùng được địch gài trong hàng ngũ
chúng ta. Trung đă góp phần gây hoang mang, làm sụp đổ tinh thần chiến đấu
của quân dân miền Nam, gián tiếp đày đọa, giết hại anh em đồng đội trong
các trại tù cải tạo để đổi lấy vinh thân, được Việt cộng tưởng thưởng công
lao phản nghịch đó bằng địa vị hôm nay.
Cuộc oanh kích dinh Độc Lập và sau đó là phi trường Tân Sơn Nhất vào chiều
28 tháng 4, 1975 của năm chiếc phi cơ A-37, đă được Việt cộng tuyên dương
như một chiến tích anh hùng. Hàng năm, đến ngày 30 tháng 4, báo chí của
chúng đều nhắc đến cái gọi là “thành tích lịch sử” của Phi Đội Quyết Thắng
do Nguyễn Thành Trung dẫn đầu với một phi công A-37 khác của Không Lực
VNCH là Trần Văn On, cùng bọn giặc lái Việt cộng Từ Để, Mai Vượng, Nguyễn
Văn Lục, Hán Văn Quảng. On và Xanh là hai phi công VNCH, tù binh bị Việt
cộng bắt ở Đà Nẵng, ép buộc phải thi hành công tác huấn luyện cấp tốc cho
giặc lái MIG Việt cộng, để theo Nguyễn Thành Trung bay vào đánh Sài G̣n.
Bài tường thuật đăng trên tờ Lao Động của Việt cộng xuất bản ngày 2 tháng
5, 1996 cho biết Phi Đội Quyết Thắng do Nguyễn Thành Trung bay ở vị trí số
một, vừa là chỉ huy “Biên đội” (Phi đội), vừa là người dẫn đường. Bay số
hai là Từ Đễ (con trai giáo sư Từ Giấy, Đại học Tổng Hợp Hà Nội), hiện đeo
quân hàm Đại tá ở Bộ Tham Mưu Không Quân Cộng sản. Bay số ba là Nguyễn Văn
Lục, Phó chỉ huy Biên đội. Số bốn là Hán Văn Quảng, hiện là Đại tá Sư
trưởng Sư đoàn Không Quân của chúng. Máy bay số năm có hai người: Mai
Vượng, quê ở Diễn Châu, Nghệ An (đă chết năm 1976) và Trung úy phi công
“Ngụy” Trần Văn On.
Bọn giặc lái Việt cộng (Lục, Đễ, Quảng, Vượng) từ trước đến nay chỉ quen
với máy bay MIG-17 của Nga, chưa từng biết tới A-37 của Mỹ bao giờ. Giặc
lái Việt cộng vào Đà Nẵng từ ngày 22 tháng 4, 1975 để học lái A-37 cấp tốc
trong ṿng năm ngày. Nguyễn Văn Lục cho biết y chỉ bay tập được ba chuyến
trong năm ngày đó. Lục nói, “Các bộ phận điều khiển của máy bay A-37 toàn
là tiếng Anh, anh em chúng tôi nhờ người dịch ra tiếng Việt, rồi cắt giấy
dán đè lên tiếng Anh để biết mà xử dụng...”
Tư Lệnh Không Quân Việt cộng thời đó là Lê Văn Tri, thiếu tướng, đă trực
tiếp giao nhiệm vụ cho bọn Lục. Y khoe, “Sau chiến thắng trở về, đồng chí
Đinh Đức Thiện gặp chúng tôi, nói rất vui, “Chúng mày rất giỏi. Lính tao
chuyển loại xe ô-tô cũng phải mất năm ngày, huống ǵ là máy bay của chúng
mày. Giỏi, giỏi lắm!”.
Cái “giỏi lắm” của bọn giặc lái Việt cộng Từ Đễ, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn
Quảng là cái giỏi “nói phét”! Việt cộng tổ sư nói phét không biết ngượng
là ǵ trong bất cứ ngành nghề, giai cấp nào của chúng. Tên tướng Không
quân Việt cộng xuất thân từ giới lơ xe đ̣ Đinh Đức Thiện khen ngợi bọn Lục
“giỏi lắm” chỉ là thói quen “mèo khen mèo dài đuôi” của bọn “đỉnh cao trí
tuệ” mà anh em tù cải tạo ai cũng biết. Việt cộng làm ǵ cũng tự cho là
giỏi. Không thấy ai khen, chúng tự vỗ tay khen chính ḿnh, khen líu lo
nồng nhiệt không biết ngượng th́ cái chuyện anh Thiện khen em Lục chẳng có
ǵ là lạ!
Để biết rơ cái “giỏi lắm” của những chiến sĩ “người lái anh hùng” nhăn
hiệu Vi-Xi thế nào, mời bạn đọc hăy cùng chúng tôi đọc truyện ngắn “Trận
Đánh Cuối Cùng” của văn sĩ Hữu Mai viết ca tụng “anh hùng” Nguyễn Thành
Trung và các đồng chí giặc lái Vi-Xi của y một cách trơ trẽn vô duyên
trong tuyển tập “Văn 1957-1982” do Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số kỷ niệm
lần thứ 25, xuất bản năm 82, để thấy tŕnh độ nói phét của Vi-Xi nó “siêu”
đến chừng nào mà cười đau khóc hận cho vận số hẩm hiu đất nước....
oOo
Hữu Mai mở đầu “Trận Đánh
Cuối Cùng” bằng câu “Một ngày thật dài....” Y cho biết buổi sáng hôm đó
c̣n ở Gia Lâm, có lệnh đi công tác ngay bằng chiếc IL-18. Đi người không
và một giờ sau đáp phi trường Đà Nẵng. Hữu Mai viết theo thể văn tự thuật,
dùng chữ “chúng tôi” nên người ta có thể hiểu y chính là một trong những
tên giặc lái Vi-Xi được cử vào Nam làm cái “Mission Impossible” này và
viết bài tường thuật. IL-18 là phi cơ vận tải như C-47 của Không Quân miền
Nam. Y nói “lần này chúng tôi đi công tác người không” - chắc là cho nhẹ,
để chuyến về c̣n chở theo chiến lợi phẩm “hia” được của miền Nam “phồn
vinh giả tạo.” Có lẽ bọn y không mang theo cả vỏ cau khô đánh răng, khăn
mặt hay cơm nắm muối vừng làm chi cho nặng. Hữu Mai chắc ăn, không cần bắt
chước đàn anh Khổng Văn Tuyết ngày xưa tay đôi không chiến với máy bay
“Con Ma” (Phantom) hay “Thần Sấm” (Thunderbolt) của đế quốc Mỹ xâm lược.
Anh hùng Khổng Văn Tuyết bay phi cơ MIG đem theo cơm nắm muối vừng, một ấm
nước vối và cả cái điếu cầy lên trời, tắt máy phây phả nằm gác chân chữ
ngũ mai phục trong mây, đợi từ sáng tới chiều cho khỏi tốn xăng, khi thấy
phi cơ Mỹ tới là mở máy nhào xuống bắn hạ cái một!
Bọn giặc lái Vi-Xi hạ cánh xuống phi trường Đà Nẵng sau một giờ bay. Sân
bay Đà Nẵng “rộng và dài hun hút” được Hữu Mai mô tả là “siêu cấp,” hơn
gấp bội phi trường Gia Lâm của miền Bắc anh hùng. Cái phi trường Gia Lâm
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc, theo lời cậu
Trác “Thuốc Lào” phi công C-130 kẹt lại, đă từng bay chở cán bộ, bộ đội
Vi-Xi từ Bắc vào Nam công tác và chở đồ thổ phỉ gồm cả kẽm gai, tôn gỗ
và... ghế đá công viên từ Nam ra Bắc; sau c̣n được trưng dụng dạy bay và
dạy Địa huấn cho bọn giặc lái Việt cộng trước khi “thầy” bị cho đi tù cải
tạo. Hồi vượt biển qua Mỹ, cậu Trác đă kể lại với kẻ hèn này rằng:
- Phi trường Gia Lâm vắng như nghĩa địa bỏ hoang, cỏ tranh mọc cỡ đầu
người. Tớ đáp xuống, thấy bộ đội lũ lượt từng đoàn vác liềm vào cắt cỏ
tranh rồi gồng gánh đi ra. Sau đó lại một bầy dân chúng kéo vào mót những
đám tranh c̣n sót lại! Phi trường này cũng như phi trường Bạch Mai không
có đài Kiểm soát Không Lưu. Mỗi lần có máy bay ngoại quốc đến, chúng nó
mướn một thằng Air Traffic Control người Nhật nói tiếng Anh vào hướng dẫn
cho phi cơ đáp hoặc cất cánh xong rồi về.
Nên chi nh́n thấy phi trường “siêu cấp” Đà Nẵng, bọn pilot Việt cộng cứ
nghệt mặt ra. Hữu Mai cho biết, “Ngay sau khi đáp xuống Đà Nẵng, có đồng
chí tham mưu trưởng đứng đợi bên chiếc A-37 sơn màu vằn vện, h́nh thù dữ
dội, giống như một con thú rừng chưa thuần hóa.” Đàn anh ra lệnh cho các
đàn em tập buồng máy ngay, “chỉ có từ ba đến năm ngày chuẩn bị.”
Màn tập tành “ba đến năm ngày” này quả là chuyện phong thần. Nhưng ai
không làm được chứ Vi-Xi cái ǵ mà làm không được? Không làm được bằng
chân tay, trí óc, các con làm bằng mồm! Hữu Mai viết, “Nếu trước đây có ai
nói như vậy th́ đó là nói đùa. Trong chiến tranh, những lần chuyển loại
máy bay gấp gáp nhất cũng phải mất ba tháng. Không thể đùa với máy bay. Ở
trên không, không có điều kiện để rút kinh nghiệm cho những sai lầm...”.
Nói vậy cho nổi bật cái khả năng thần thánh của con người cộng sản “siêu
cấp” và để bọn Ngụy nghe mà sợ chơi. Câu nói trên là áp dụng cho việc
chuyển loại phi cơ cộng sản thôi đấy, mà cũng cần tới ba tháng là tối
thiểu. Vậy mà các “đỉnh cao trí tuệ” chỉ cần từ ba tới năm ngày, nghe phát
rét. Huống hồ bọn giặc lái Vi-Xi tiếng Anh tiếng U không biết một mẩu,
ngoài ba tiếng “oẳn tù t́”! Hữu Mai viết, “Mỗi feet bằng bao nhiêu đơn vị
đo lường của ta nhỉ? Làm thế nào hiểu được hết những tiếng Anh trong buồng
lái để khỏi phải nhớ các công-tắc, các đồng hồ bằng vị trí của chúng?...”.
Cái này phải hỏi cậu Trác Thuốc Lào, tự nhà văn KQ Trác Vũ. Cậu Trác Thuốc
Lào một lần chịu không nổi những quả ngu của lũ giặc lái con cháu lăo Hồ,
đă buột miệng chửi thề, xém bị mất cái chỗ đội mũ v́ lỡ “hỗn,” lỡ coi
thường các đấng đỉnh cao trí tuệ. Cậu Trác kể:
- Phi công Việt cộng,
chúng nó từng qua Nga học bay MIG. Nhiều đứa ở Nga đến 6, 7 năm mà khi về
nước vưỡn đếch biết nói tiếng Nga La Tư mới tếu! Bọn chúng nó đi học, có
thông dịch viên đi kèm theo để theo dơi, kiểm soát.... Trong lớp thầy dạy
ǵ, kệ bố thầy, chúng không cần nghe v́ khi về pḥng có thằng thông dịch
lại. Tớ bỏ công dịch tất cả sách kỹ thuật tiếng Anh ra tiếng Việt, dạy
chúng nó hoàn toàn bằng tiếng Việt. Thế mà ḿnh đọc, chúng không hiểu.
Đánh vần đi đánh vần lại từng chữ như dạy trẻ con i-tờ-rít, chúng nó vẫn
không biết viết ra làm sao. Tớ lập đi lập lại, bọn chúng vẫn ngớ ra như
chúa tàu nghe kèn, mặt đần độn trông phát giận. Một lần, nhịn không được,
tớ buột miệng chửi thề, “ĐM, sao các anh ăn ǵ mà ngu quá vậy?” Ḿnh quen
mồm như trước đây đùa giỡn với bạn bè. Chúng nó sừng sộ hỏi tội làm tớ
xanh mặt.
Kẻ hèn này hồi đó nghe cứ tưởng cậu Trác bôi bác Vi-Xi, không tin nổi,
nghĩ rằng cậu phịa ra để tếu chơi. Lạ ǵ cái giống Không Quân, bạn bè gặp
nhau, đúng tần số là tha hồ đấu hót vung vít, hư thực khó lường... nên bèn
hỏi đểu một câu:
- Thế hả? Th́ ra chúng nó là bọn ngu cả lũ. Nhưng “ngu” mà chúng nó bay
MIG, dám chơi “dog fight” tay đôi với pilot Mỹ? Cậu Trác nói vậy th́ chúng
tôi biết vậy.
“Dog fight” có nghĩa là “không chiến,” là vác máy bay uưnh lộn trên mây,
giữa từng trời. Cậu Trác Thuốc Lào được coi là một pilot vận tải hiền nhất
nước Không quân, thật thà như đếm. Nghe kẻ hèn này nói câu móc ḷ, cậu chỉ
cười cười, phô hai hàm răng đầy nhựa thuốc lào, kể tiếp:
- Đằng ấy tưởng chúng nó
bay MIG thật đấy hả? Ḿnh lầm hết. Mấy cậu Mẽo đồng minh mặc cảm, sợ quốc
tế chê cười nên nhiệt liệt thổi phồng pilot Vi-Xi là ghê gớm để tăng giá
trị của ḿnh và để khỏi mang tiếng người nhớn bắt nạt ranh con. Chúng nó
có đi Nga thật, học tới sáu, bảy năm lận. Nhưng chúng chỉ lo buôn lậu
“quần ḅ” đem về nước bán kiếm lời, bay với bổng mẹ ǵ. Toàn là bọn con
ông cháu cha hay thành phần chăn trâu gánh nước có thành tích đấu tranh
giai cấp tích cực, đấu cha, tố mẹ, ḍ la hàng xóm, được phong làm “anh
hùng,” cho đi học lái nhưng chữ nghĩa đâu mà học? Các cuộc không chiến với
phi cơ Mỹ đều do pilot Bắc Hàn hay Trung cộng lái. Pilot Vi-Xi được cho đi
theo, nhiều đứa thú thật với tớ chỉ là... “thợ vịn”! Ngoài Bắc chúng gọi
bằng danh từ rất kêu, là “tháp tùng tử”!
“Người lái” kiêm nhà văn Hữu Mai, hôm đầu tiên khi từ Bắc vô Nam tay không
(cầm bó rau), mô tả rằng bọn y đêm đó lo cóc ngủ nghê ǵ được. Phần v́ cấp
trên giao phó cho nhiệm vụ học bay A-37 chỉ trong vài ngày - với sức các
cậu - “sỏi đá làm thành cơm” tương đối dễ ợt, chứ bay bổng loạng quạng là
tan nát đời huê ngay. Cậu tả oán, lư do mất ngủ thứ hai là do... không
khí. Mùi máy lạnh và v́ cái nệm mút dầy êm quá, các cậu ngủ không quen...
“Không khí hơi ngột ngạt. Chắc là c̣n phải một thời gian mới quen được với
cái mùi nhân tạo của máy điều ḥa nhiệt độ. Một mùi hăng hắc, nồng nồng.
Mùi ǵ vậy?.... Ngoài kia, ở thành phố đang tỏa một vùng ánh sáng xanh
trong lên bầu trời đêm, chắc c̣n nhiều thứ chúng tôi c̣n phải lạ lắm!”
Đúng dzậy! Các con sẽ c̣n thấy nhiều thứ “lọa” hơn nữa ở miền Nam. Cái mùi
đó là mùi “hăm-bơ-gơ” của đế quốc, khi đă quen rồi, các con sẽ ghiền và
khi ghiền tới độ nặng là các con sẽ chết không kịp ngáp đấy. Mất ngủ, suy
nghĩ đến gần phát hoảng, Hữu Mai dẹp tự ái “đỉnh cao trí tuệ,” ao ước,
“Giá có mấy anh nhân viên lái cũ của Ngụy ở gần đây để yêu cầu họ ghi lại
cho những hàng chữ Anh ở trong buồng lái th́ hay quá. Mỗi tối trước khi
ngủ say sẽ in luôn nó vào trí nhớ...”.
Mẹ kiếp, khi tỉnh học c̣n cóc vô, học theo lối “ngủ say” th́ học với hành
thế chó nào được? Mà chỉ có từ ba tới năm ngày để bay cho được chiếc A-37.
Ngụy chúng nó trước khi học lái, phải tới Lackland trụ tŕ ít nhất vài
tháng học Anh ngữ. Hữu Mai sau đó kể rằng y và đồng bọn được hai “nhân
viên lái” mới được lựa chọn từ trại tập trung về kèm cho các cậu học Anh
văn và học bay. “Cả hai đều gầy nhom. Người cao để râu tên là Xanh, người
Quảng B́nh, theo gia đ́nh di cư vào Nam năm 1954. Người thấp nhỏ là On,
quê ở G̣ Công. Cả hai người đều ngạc nhiên khi thấy chúng tôi không hỏi
đến vấn đề cơ bản, không hỏi về cách xử trí trong trường hợp máy móc hỏng
hóc, mà hỏi ngay vào công-tắc điều khiển những đồng hồ bay...”.
Cái này phải xét lại ạ. “Những vấn đề cơ bản” nghĩa là cần điều khiển phi
cơ, là những nút bấm, nút bật để mở máy, để chỉnh động cơ, để điều khiển
bánh đáp, góc dựng cánh lái đuôi, v.v. các con không cần hỏi tới th́ bay
cái củ ǵ? Các con muốn chứng tỏ ta đă rành nghề, đâu cần biết tới vài ba
cái lẻ tẻ, hay hỏi những cái “cơ bản” sợ quê xệ với bọn giặc lái Ngụy? Bọn
giặc lái Ngụy, phi công phản lực A-37 bị các con khi dể, chê là “gầy
nhom,” đâu phải v́ miền Nam đói khổ, thiếu dinh dưỡng? Mà v́ họ mới được
móc từ trong “tù cộng sản” ra đấy!
Cậu Trác Thuốc Lào kể chuyện hồi đó trong chuyến bay chở đồ thổ phỉ ra
Bắc, có một thằng đại tá Không quân Việt cộng đi theo, đ̣i lên pḥng lái
ngồi ghế copil thay thằng công an “bảo vệ” như thường lệ. Trên đường bay,
trời êm ả, cậu Trác lên cơn ghiền, móc cái điếu cầy ra, rít một bi thuốc
lào. Đang phê phê khoái tỉ th́ anh đại tá Không quân Nhân dân ṭ ṃ hỏi
chàng giặc lái miền Nam:
- Cái đồng hồ này là đồng hồ ǵ, có mỗi một cánh tay?
- Dạ, nó là cái đồng hồ
“ây-đi-ép” (ADF), dùng để bay phi cụ khi trời xấu không thấy đường, từ
điểm này tới vị trí khác. Có nó mới lấy đúng hướng được, không sợ phi cơ
mất hướng, bay lạc....
ADF là “Automatic Directional Finding.” Tên đại tá Vi-Xi nh́n cậu Trác
Thuốc Lào với vẻ nghi hoặc kỳ cục:
- Anh nói thật chứ? Đề
nghị anh giải thích thêm cho tôi được đả thông. Tôi không hiểu sao lại có
thứ đồng hồ ǵ lạ như vậy?
Cậu Trác nhà ta cũng nh́n tên đại tá bằng vẻ nghi hoặc kỳ cục không kém:
- Phi cơ có ba cái đồng hồ
phi cụ căn bản là đồng hồ chỉ cao độ, vận tốc và đồng hồ chỉ hướng, hay la
bàn. ADF là đồng hồ t́m hướng khác, dùng tần số đài phát tuyến cố định
dưới đất.
Khi thấy thằng cha đại tá hỏi, tớ tưởng nó muốn thử, muốn khảo sát tŕnh
độ và khả năng của ḿnh, nên tớ ậm ừ không nói. Nhưng sau thấy nó có vẻ
không biết thật ông ạ. Nó đưa tay sờ sờ cái đồng hồ, trầm ngâm nghĩ ngợi
rồi hỏi nữa, “Anh nói bị mất hướng, dùng đồng hồ này lấy lại được đúng
hướng à?” Nó bảo tớ biểu diễn thử, lúc bấy giờ tớ mới tin là nó không biết
thật! Tớ cho phi cơ ṿng trái ṿng phải, nhào lên chúi xuống, quẹo tới
quẹo lui, tăng giảm cao độ lung tung xong mới đem về b́nh phi, lấy cao độ
cũ và chỉnh mũi phi cơ bay theo đúng hướng cũ của đồng hồ ADF. Thằng đại
tá ngồi bên bị vertigo, mặt cứ thộn ra. Măi nó mới hoàn hồn, tấm tắc:
- Hiện đại thật...! Đúng
là Mỹ có khác!
Pilot C-130 Trác Thuốc Lào sau đó mới cảm thấy tự nhiên, thấy hân hoan v́
ḿnh “nhớn” hơn anh Đại tá Vi-Xi nhiều - ở tài bay và kiến thức phi hành.
Trác Thuốc Lào từ hôm đó mới biết rơ:
- Mất miền Nam đau quá.
Chúng nó ngu hơn chó chứ tài giỏi ǵ. Chúng chỉ giỏi lừa bịp và nói phét!
Tŕnh độ một thằng đại tá, khả năng và kiến thức không bằng một thiếu úy
của ḿnh. Tớ có hỏi nó, ở ngoài Bắc phi cơ của các ông không có đồng hồ
giống như ADF của chúng tôi, làm sao mà bay từ tỉnh này tới tỉnh kia khi
thời tiết xấu hay bay đêm được?
Xin bà con Không Quân lắng nghe câu trả lời của cậu đại tá Không quân Hà
Nội rất đáng đồng tiền bát gạo như thế này:
- Ngoài Bắc chúng tôi dứt
khoát không bay đêm. Chúng tôi có khẩu hiệu “Tự Đi, Tự Đến, Tự Về.” Nghĩa
là khi nh́n thấy rơ đường đất làng mạc bên dưới th́ người lái cứ việc tự
ḿnh bay theo con đường lúc đi và khi về cũng bay theo đường cũ mà về, vừa
an toàn mà vừa không cần có người dưới đất điều hành chỉ đạo đường bay như
các anh!
- Hèn chi, cậu Trác nói,
có lần tớ để cho một thằng giặc lái Vi-Xi lái từ Hà Nội đi Tuyên Quang. Nó
bay như thằng say rượu, bay rất thấp dưới mây và cứ ḷ ḍ bay theo đường
lộ. Buổi chiều, theo lời dặn, bốn giờ rưỡi phải trở về Hà Nội, tớ ra mở
máy.... Đang loay hoay check máy th́ ba thằng Vi-Xi xách súng AK chĩa vào
tớ quát tớ tắt máy đi xuống....
Lúc đó trời mưa lâm râm. Thằng cán bộ xếp ṣng sừng sộ hỏi Trác:
- Đi đâu? Ai cho anh mở
máy?
Trác phân bua:
- Cán bộ bảo bốn rưỡi về
mà?
- Không về. Trời mưa. Ở
lại đây tối nay.
- Nhưng mưa nhỏ.... Mưa
phùn bay đâu có sao?
Y trợn mắt nh́n Trác:
- Anh không biết bay trong
mưa nguy hiểm sao? Tôi nói ở lại hôm nay!
Khả năng của cậu đại tá Không quân ngành bay Việt cộng là như thế. Hữu Mai
cấp bậc ǵ, y không giới thiệu, nhưng khả năng chắc cũng chẳng khá hơn đàn
anh đại tá với tiết lộ về khẩu hiệu “tự đi, tự đến, tự về” làm té ngửa bà
con Không Quân Ngụy, thoạt nghe tưởng phi cơ được trang bị hệ thống
ô-tô-pai-lốt “hiện đại,” tự nổ máy, tự cất cánh, tự b́nh phi, tự t́m lấy
đường về căn cứ, tự hạ cánh, tự lồm cồm ḅ đi đổ xăng, và tự di chuyển vào
băi đậu...!
Đêm đầu tiên không ngủ. Đêm sau bớt lo v́ đă có hai anh giặc lái Ngụy tên
Xanh và On đến giúp nhưng cũng khó ngủ v́ cái mùi “hăm-bơ-gơ” của đế quốc
nó ám ảnh quá trời trời. Hữu Mai thuật lại rằng, Xanh và On đă rụt rè hỏi
chúng tôi, “Chúng em muốn đề nghị các anh cho đi theo trong trận đánh được
không? Chúng em sẽ không phụ ḷng tin cậy của các anh....” Mẹ kiếp, toàn
dân Không Quân chúng ta có ai tin được không, cái giọng “điếu đóm” sặc mùi
Vi-Xi nghe hèn không tả được. Pilot Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa làm ǵ có
thói quen xưng hô “anh, em” với cấp trên và cấp trên “mày, tao” với cấp
dưới như anh tướng lơ xe Đinh Đức Thiện của quân đội Vi-Xi? Nhờ các cậu
một tí. Viết ǵ th́ viết nhưng cũng phải gần với sự thật người ta mới tin.
Đem bôi bác địch kiểu đó chỉ làm cho địch nó cười!
Sau đó Hữu Mai tường thuật đến kế hoạch dùng phi cơ A-37 của VNCH để tấn
công bất ngờ phi trường Tân Sơn Nhất nhằm gây chấn động tâm lư và hoang
mang quần chúng, đẩy nhanh đà di tản của Mỹ. Y nói đến những mối lo, cốt
tăng phần nghiêm trọng cho phi vụ “Biên đội không có máy bay tiêm kích đi
kèm để bảo vệ. Nếu kẻ địch phát hiện máy bay lạ từ phía Bắc bay xuống,
chắc chắn chúng sẽ dùng bọn F-5 để ngăn chặn....” Và “Làm thế nào để lọt
qua mạng lưới ra-đa tối tân của địch trên suốt chặng đường dài từ nơi máy
bay cất cánh đến Tân Sơn Nhất? Lần này lại không có đài dẫn đường, chúng
tôi đều chưa thuộc địa h́nh, làm sao bay đến đúng mục tiêu?”
Hữu Mai c̣n nói đến nguy hiểm thời tiết, mưa bất ngờ và kể ra nào hệ thống
cao xạ pḥng không của cả hai phía nhắm bắn v́ không biết phi cơ phe nào.
Y kể ra một lô những trở ngại nhưng sau đó kết luận, “Mọi trở ngại đều
được lần lượt giải quyết (?).”
Vai tṛ của Nguyễn Thành Trung bấy giờ mới được nói đến, “Đồng chí Nguyễn
Thành Trung bảo đảm sẽ đưa toàn Biên đội đến mục tiêu. Anh là người của ta
hoạt động trong hàng ngũ Không Quân Ngụy, mới từ bên kia chiến tuyến trở
về sau khi đă trút hai trái bom xuống dinh Độc Lập. Ta sẽ cố tránh các
trận địa cao xạ cả của ta và của địch được chừng nào hay chừng ấy....
Chúng tôi sẽ cố giáng cho kẻ địch một đ̣n thật bất ngờ...”.
Nguyễn Thành Trung dẫn đầu Biên đội tới mục tiêu, với On được tham gia
trận đánh. Trung là kẻ đă tích cực đóng góp ư kiến vào kế hoạch đánh Tân
Sơn Nhất bởi tên phi công phản quốc này nằm vùng, nắm rất rơ t́nh h́nh và
địa h́nh cùng các yếu tố quan trọng khác. Chúng dùng phi cơ A-37 phát xuất
từ phi trường “siêu cấp” Phan Rang, sân bay Thành Sơn. Theo kế hoạch,
Trung sẽ xuống đầu tiên “cắt” bốn lần bốn trái bom thành một vệt dài làm
chuẩn cho những máy bay sau oanh kích.
Dù có khả năng siêu việt “tự đi, tự đến, tự về” nhưng bọn giặc lái Vi-Xi
cũng thập phần vất vả từ Phan Rang bay vào v́... trời mưa! Để chứng tỏ
trời mưa nguy hiểm đến độ phi công Ngụy cũng teo bu-gi cho đỡ mất mặt bầu
cua, Hữu Mai viết, “Sau này, đồng chí Nguyễn Thành Trung nói lại với chúng
tôi, trên đường bay có lúc anh nảy sinh ra ư nghĩ đưa Biên đội quay trở về
v́ thấy thời tiết quá xấu.” Y mô tả cảnh rùng rợn, khi chiếc A-37 dẫn đầu
của Nguyễn Thành Trung chui vào mây, các anh con giặc lái Vi-Xi tí nữa
th́... són đái, thần kinh căng thẳng, bởi như anh đại tá Vi-Xi đă nói,
“Ngoài Bắc trời mưa, chúng tôi không bay!”
Cũng may cơn mưa nhẹ hều và cục mưa bé tí xíu nên chưa đầy ba mươi giây
đồng hồ bọn không tặc Vi-Xi đă bay ra vùng trời sáng rỡ.... “Chúng tôi đă
ra khỏi mây. Không phải mất nhiều công t́m kiếm, lại nh́n thấy máy bay của
Biên đội trưởng...”.
Hú vía. Vừa thoát nạn là các con lại yên tâm nói phét ngay. Hữu Mai, có lẽ
là tên giặc lái Mai Vượng viết thế này, “Chúng tôi nh́n xuống mặt đất.
Phía trước không xa, hai dăy nhà thấp cao lố nhố nằm dọc theo một trục
đường.
Đúng là một thị trấn. Bà Rịa đây rồi! Người bỗng cảm thấy nhẹ nhơm hẳn.
Đồng bào đi lại rất đông trên mặt đường. Đột nhiên những đám người đông
đặc ấy vỡ ra, tóe sang hai bên đường và bỗng chốc quang hẳn đi. Chúng tôi
hiểu ngay.... Đồng bào tưởng nhầm chúng tôi là những máy bay từ Sài G̣n
đến oanh tạc. Ḷng chúng tôi se lại với ư nghĩ có hàng ngàn cặp mắt đang
ném về phía ḿnh những cái nh́n căm ghét và sợ hăi...”.
Nhờ cậu tí. Sài G̣n ở hướng Nam của Bà Rịa, phi cơ các cậu bay từ hướng
Bắc xuống, đồng bào “tưởng nhầm” thế quái nào được? Đoàn người xuôi Nam để
chạy các cậu đấy, sợ các cậu đấy, căm ghét các cậu đấy. Không Quân miền
Nam, trong chiến tranh, đôi khi xảy ra chuyện “ném chuột vỡ đồ,” đồng bào
có thể lâm vào cảnh tên bay đạn lạc nhưng con số thật ít nhưng không ai
thù ghét Không Quân bằng thù ghét cái bọn đi đến đâu là đem tang tóc điêu
linh đến đó như lũ cha con đồng chí của các cậu. Vụ chôn sống mười ngàn
người hồi Tết Mậu Thân 68 ở Huế mới khiến đồng bào giẫm đạp lên nhau mà
chạy, gây nên thảm trạng “Đại Lộ Kinh Hoàng” hồi mùa hè đỏ lửa 72 và cảnh
di tản “Con Đường Máu” từ Pleiku về Tuy Ḥa tháng 3, năm 1975....
Hữu Mai ḷng tḥng kể chi tiết “Trận Đánh Cuối Cùng” vào Tân Sơn Nhất với
đầy đủ tính chất ly kỳ gay cấn và đầy phét lác kiểu Vẹm ăn không nói có
cực kỳ trơ trẽn và nham nhở, ba xạo không thể tả. Chẳng hạn bay hành quân
đột kích Tân Sơn Nhất “hoàn toàn bí mật và bất ngờ” nhưng lại dùng tần số
hành quân của Không Quân VNCH để nói chuyện với nhau và nghe được “một
giọng thất thanh, một giọng nói bằng tiếng Bắc”:
- Số Bốn đi đâu thế kia?
Sao lại thế kia? Nhảy dù đi chứ?
Trái tim chúng tôi thắt lại. Có lẽ nào chưa kịp làm nhiệm vụ mà một người
trong chúng tôi đă phải nhảy dù? Nhưng nh́n nhau, vẫn thấy đủ năm chiếc
A-37 trên một đường bay ổn định.
Cái giọng Bắc ban năy thét to:
- Cháy rồi...! Số Bốn nhảy
dù đi!
Nh́n lại hai tên địch (?), chúng tôi chợt hiểu ra. Một chiếc AD-6 đang
bùng cháy. Chắc nó trúng đạn của bộ đội ta tại nơi nó tới oanh kích, cố lê
về đến đây, nhưng nó vẫn không thoát. Tên lái chiếc AD-6 này không nhảy
dù. Chiếc máy bay lao xuống đất....
Bố khỉ. Cứ như trong xi-nê-ma! Phải có những chi tiết gay cấn ấy mới nổi
bật chiến công vĩ đại của bọn Hữu Mai. Rồi cảnh đánh phá Tân Sơn Nhất cũng
được mô tả y hệt cảnh những người hùng trong phim “Bla Bla Black Ship” vừa
bay bỏ bom, bắn cà nông, vừa cười vui vẻ ra cái điều ngon lành dũng cảm.
Nguyễn Thành Trung đánh trước, bom không ra, làm ṿng tiếp. Đại đội phó Từ
Đễ theo sau Trung, nhắm hangar A-37 nhưng bom rơi mẹ nó sát chiếc C-130
vừa hạ cánh ở tuốt luốt bên này băi đậu Whiskey Five (W-5). Rồi Đại đội
trưởng Lục thả bốn trái nhưng lóng ngóng chỉ rơi có hai. Sau đó là Vượng
và On, nhắm vào hangar A-37 nhưng đều trật lất!
Hữu Mai viết, “Những việc trên đă diễn ra hết sức nhanh chóng.” Chúng ta
hăy đọc tiếp những đoạn văn dưới đây để xét giá trị toàn bộ bài viết “Trận
Đánh Cuối Cùng”....
Đến lúc đó mới nghe thấy tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên:
- Tân Sơn Nhất bị pháo
kích...!
Một tên khác, nghe giọng nói có vẻ là một tên chỉ huy, lập lại:
- Tân Sơn Nhất bị pháo
kích! Rồi hắn hỏi tiếp số A-37 của Phi Đoàn nào, xin cho biết tên?
Giữa lúc đó, Biên đội trưởng đă lao xuống sân bay lần thứ hai. Nhưng rồi
thấy anh kéo lên, tiếp tục lượn ṿng. Những trái bom vẫn chưa chịu ra.
Một giọng nói khác bằng tiếng Anh, chắc là của một tên Mỹ, lập lại câu hỏi
của viên sĩ quan trước đó:
- A-37 của phi đoàn nào?
Giọng nói có vẻ hách dịch của tên Mỹ đă làm cho Đại đội phó Từ Đễ nổi
nóng. Anh quát to:
- Phi đoàn A-Mê-Ri-Ca đây!
Mẹ kiếp, thối không ngửi được. Đang bay trên trời, trong pḥng lái kín
mít, lo bỏ bom, nhắm bắn mục tiêu mà có “thiên lư nhĩ,” nghe được cả
“tiếng tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên...” th́ quả là con đẻ của Tề
Thiên Đại Thánh! Rồi đang từ một thằng “người lái” mới vài hôm trước không
biết nổi “mỗi feet là bao nhiêu đơn vị đo lường của ta” và “làm thế nào
hiểu được hết những tiếng Anh trong buồng lái...” vậy mà hôm sau đă nghe
rành rọt “giọng một tên Mỹ,” hiểu được nó nói ǵ và tên Mỹ c̣n biết “lập
lại,” dịch ngay tại chỗ ra tiếng Anh câu hỏi của viên sĩ quan Việt, mới ly
kỳ! Tên giặc lái Từ Đễ c̣n biểu diễn màn Tarzan nổi giận, quát to lên cho
thằng Mỹ sợ văi đái! Ghê thiệt!
Hữu Mai sau đó, được thể, cương thêm:
Bây giờ từ sân bay mới vang lên những tiếng hoảng hốt:
- Bốn A-37 ném bom Tân Sơn
Nhất.... Đề nghị các máy bay hăy tránh xa!
Cái vụ “nghe thấy tên trực sân bay” ở đoạn trên có thể tạm hiểu là đương
sự nghe trên tần số hành quân của bọn Ngụy cũng được đi. Nhưng việc “từ
sân bay bấy giờ mới vang lên những tiếng hoảng hốt” th́ đúng là...
“bu-siệt”! Không Quân Miền Nam đâu có lối nói lịch sự kiểu Vi-Xi “đề
nghị”? Người miền Nam nói “yêu cầu tránh xa” chứ trong trường hợp bấn xúc
xích đó, làm quái ǵ có mục “đề nghị tránh xa”?
Văn nô Hữu Mai vớt vát thể diện cho Biên đội trưởng Nguyễn Thành Trung và
bọn thợ gắn bom mà bom không nhả (có thể lính của ta bị ép buộc trang bị
bom đạn cho Vi-Xi đă cố t́nh chơi đểu (?)....” Chiếc máy bay của biên đội
trưởng đă giận dữ lao xuống lần thứ ba. Lần này, bốn trái bom của anh cùng
rơi một lúc. Một đám cháy mới bùng lên tại khu vực tập trung máy bay tiêm
kích F-5....” Xạo ke! Tân Sơn Nhất làm chó ǵ có khu vực nào tập trung
F-5?
Từ đầu đến cuối toàn nói phét. Nói phét lộ liễu trắng trợn và bất chấp sự
hợp lư của sự kiện. Cậu văn nô liên tục nói phét với mục đích đánh bóng
thành tích với những chi tiết chỉ có thể đánh lừa được bọn lănh đạo già
nua ngớ ngẩn của các cậu, đánh lừa đám dân miền Bắc đă được họ Hồ làm cho
ngu từ năm 1954.... C̣n đối với nhân dân miền Nam, nhất là với “bọn giặc
lái Ngụy,” th́ chỉ tổ làm tṛ cười rẻ tiền như cái phét vĩ đại trong bài
“Trận Đánh Cuối Cùng,” khi Hữu Mai viết về chuyến bay trở về của đám không
tặc Vi-Xi.
Từ Đễ gần hết xăng khi về gần căn cứ xuất phát nhưng y biểu diễn màn
“người hùng” cải lương không chịu được. Y không báo cáo sắp hết xăng,
không chuẩn bị nhảy dù và quyết định khi hết xăng sẽ dùng “tốc độ thừa” để
chiếc A-37 tắt máy, thành máy lượn, đáp êm ru bà rù cho thiên hạ sợ chơi.
Y học bay A-37 trong ṿng từ ba tới năm ngày, khoe chỉ mới bay thử có một
lần là ra trận!
Vụ cạn xăng chỉ là bịa đặt, tạo nỗi lo sợ cho có vẻ hồi hộp bà con chơi
thôi. Đồng chí Đại đội phó đă nh́n thấy phi trường! Nguyễn Thành Trung bay
sau cùng, nhắc “số Hai” Từ Đễ nhớ bật đèn đáp trước khi hạ cánh.
Đồng chí đại đội phó nh́n những núm nút trước mặt ḿnh. Anh không t́m thấy
công-tắc đèn pha ở đâu. Nhưng không sao, trời tuy gần tối, nhưng anh vẫn
cảm thấy thời tiết ở đây tốt lắm v́ anh vẫn c̣n nh́n thấy đường băng.
Anh tự bảo, ḿnh chỉ cần giữ sao cho mọi động tác thật chính xác. Chiếc
máy bay chiếu hướng đường băng hạ dần độ cao. Đài chỉ huy sân bay đă đồng
ư cho Đễ hạ cánh trực tiếp.
- Số Hai bật đèn pha! Biên đội trưởng nhắc một lần nữa v́ tưởng đồng chí
Đại đội phó quên.
- Rơ! Đễ đáp gọn.
Anh không trả lời biên đội trưởng được nhiều hơn v́ đang phải dồn toàn bộ
tinh lực vào việc tiếp đất.
Hai bánh xe phía trước đă chạm mặt đường băng. Thế là xong. Chiếc máy bay
theo đà tiếp tục lướt về cuối sân. Nó nằm ịch lại không chịu sự điều khiển
của anh nữa. Anh không biết dầu của ḿnh đă hết tự lúc nào. Có thể là từ
khi máy bay chưa tiếp đất và anh đă hạ cánh bằng tốc độ thừa....
Độc giả từ bao nhiêu năm sống trong xă hội ưu việt miền Bắc chắc chắn sẽ
tin lắm, phục lắm, v́ dân trí được Bác và Đảng dạy dỗ phải tin những ǵ
Bác và Đảng muốn dân nghe và tin. Như trước đây phải nghe và tin máy bay
Mỹ Ngụy làm bằng giấy và dân quân miền Bắc lấy sào tre... thoọc phi cơ
“Con Ma, Thần Sấm” rớt như sung rụng chẳng hạn.
Nhưng cái bọn nhân dân ngoan cố miền Nam th́ phải xét lại ạ. Nhất là bọn
giặc lái Ngụy th́ dù ngu si cách mấy cũng bật cười ph́ khi đọc sáng tác
“Trận Đánh Cuối Cùng” của Hữu Mai trong tuyển tập Văn 1957-1982 của Hội
Văn Nghệ Sĩ Quân Đội Việt cộng. Trong đó, những “người lái anh hùng” mang
nhăn hiệu Vi-Xi đă học Anh văn và học bay phản lực cơ chiến đấu A-37 trong
ṿng năm ngày, có đứa chỉ bay thử có một phùa là bay vung vít, đánh đấm
vung vít, nói tiếng Anh vung vít. Cả bầy bay hồ hởi tới lúc sắp cạn xăng
(chúng gọi là dầu) cũng cóc biết. Không biết cả tới cái công-tắc bật đèn
pha nằm ở chỗ nào và đáp ṃ, đáp không đèn ở một phi trường nhỏ và xa lạ,
khi phi cơ đă tắt máy và đáp như để...!
Cậu Pilot Trác Thuốc Lào
nghe chuyện chỉ cười khinh khỉnh ra cái điều “Biết rồi, khổ lắm, nói
măi!”.... Hữu Mai kết luận rất dzui thế này:
- Mọi người cười ầm lên.
Khi trận đánh đă hoàn thành, khó khăn đă qua rồi, th́ những chuyện như vậy
lúc này đều có thể trở thành chuyện vui....
Đúng như dzậy. Dzui dễ sợ. Cũng may Hữu Mai, có lẽ là tên giặc lái Vi-Xi
Mai Vượng đă “hy sinh,” ngỏm củ tỉ trong trận đánh nhau với thằng đàn anh
Trung Quốc, bị mấy mụ xẩm du kích Tầu phù cầm sào tre thoọc rớt, chết lăn
cù đèo, nếu không, bây giờ độc giả c̣n được thưởng thức nhiều sáng tác
dzui hơn nữa. Như chuyện “người lái anh hùng” Hiệp Sĩ Mù của đảng cướp
Vi-Xi đáp phi trường Ngă Năm Chuồng Chó chẳng hạn - và đáp không đèn. Thật
đáng tiếc!
Người Việt Utah
Đào Vũ Anh Hùng