Nhật kư An Lộc

 


 

 

 

Cuốn nhật kư này đă được viết ngay tại mặt trận An Lộc, B́nh Long, năm 1972. Những ngày đầu của trận đánh tương đối tôi c̣n có th́ giờ để viết. Sau đó trận chiến trở nên gay cấn, nguy hiểm, sống chết không biết lúc nào, v́ bệnh viện đă ở ngay sát tuyến đầu. Hơn nữa v́ quá bận rộn săn sóc thương binh nên tôi không có th́ giờ viết hàng ngày được. Có khi tôi phải gián đoạn tới hai, ba tuần. Ngày tháng không nhớ được nữa. Tôi chỉ c̣n có thể ghi theo thứ tự trước sau của các sự việc.

 

Ngay từ đầu trận đánh, dựa trên những tin tức từ đài phát thanh và báo chí, tôi đă linh cảm trận này không phải tầm thường. Không biết ḿnh có may mắn thoát chết được không nên tôi đă có ư định ghi lại mọi việc để những người thân của tôi có thể biết được những ǵ đă xảy ra và những ǵ tôi đă làm.

 

V́ là một cuốn nhật kư nên tôi đă đề cập tới nhiều kỷ niệm riêng tư mà trong lúc ghi lại những cảm nghĩ của tôi, ḍng ư tưởng nảy ra từ những sự việc hiện tại lại lan tới những chuyện đă xảy ra trong quá khứ. Tôi ghi lại tất cả một cách tự nhiên không g̣ ép. V́ vậy người đọc sẽ thấy hơi lộn xộn. Thực ra, trước đây, tôi không có ư định giới thiệu cuốn sách này với mọi người nhưng sau những dịp nói chuyện với môt số bạn trẻ cỡ 30 – 40 tuổi, tôi thấy họ không biết ǵ về cuộc chiến đấu chính nghĩa của quân dân miền Nam chống lại sự xâm lăng của Cộng Sản phương Bắc. Do đó tôi thấy rất có lư để nhiều người cùng đọc.

 

Hơn nữa sau biến cố 30 tháng 4, 1975 , nhiều tài liệu của miền Nam đă bị hủy họai, hoặc bị tuyên truyền bóp méo sai sự thật. Do đó tôi hy vọng những h́nh ảnh cũng như những dữ kiện của cuốn sách này sẽ là một đóng góp nhỏ của một Quân Y Sĩ trong thời điểm lịch sử đó.

 

Những cảm nghĩ của tôi hồi đó là của một bác sĩ trẻ mới ra trường được mấy năm c̣n non nớt, có thể không c̣n hợp với thời đại hiện nay v́ đă cách đây tới ba mươi năm. Tôi mong có sự thông cảm của người đọc.

 

Khi vượt biên năm 1979 tôi chỉ đi người không. May nhờ cô em gái tôi khi đi đoàn tụ với gia đ́nh, đă nhớ mang theo được bộ phim slides cùng bản thảo cuốn này. Do đó tôi chỉ đánh vào máy để in lại những ǵ tôi đă viết ba mươi năm trước.

 

*****

 

LỜI MỞ ĐẦU

 

 

Do Quốc lộ 13, tôi tới làm việc tại Bệnh Viện Tiểu Khu B́nh Long ngày 13 tháng 4 năm 1971. Đúng một năm sau, ngày 13 tháng 4 năm 1972, Việt Cộng tấn công B́nh Long. Đối với tôi đó quả là một sự trùng hợp lạ lùng.

 

Tôi tốt nghiệp Đại Học Y Khoa Sài G̣n năm 1967. Theo luât lệ lúc bấy giờ tôi sẽ được miễn dịch khi học xong, không phải nhập ngũ v́ là con trai độc nhất của một quả phụ. Nhưng bản tính tôi hơi làm biếng về việc nộp giấy tờ, đơn từ này nọ rắc rối. Đồng thời tôi thấy các bạn bè đều lên đường làm nghĩa vụ quân sự, ở lại một ḿnh nó làm sao ấy. Vả lại tính tôi cũng thích phiêu lưu nên quyết định không nộp đơn xin miễn dịch mà nhập ngũ khóa 10 Y Sĩ Trưng tập năm 1968.

 

T́nh h́nh lúc đó khá rối ren v́ trùng với cuộc tổng tấn công vào dịp Tết Mậu Thân 1968 của Việt Cộng. Địch quân đă không thành công như ư họ mong muốn, nhưng những vùng nông thôn quanh Sài G̣n cũng không được an ninh lắm. Nên chúng tôi, những Quân Y, Nha, Dược sĩ trưng tập khóa 10, thay v́ phải học tập quân sự tại trường Bộ Binh Thủ Đức như thường lệ, đă được di chuyển bằng máy bay lên thụ huấn quân sự tại trường Vơ Bị Đà Lạt. Do đó tôi có cái may được học tập cơ bản quân sự tại một trường Vơ Bị nổi tiếng nhất nước, có thể nói nhất vùng Đông Nam Á. Chính trường này đă đào tạo nên những sĩ quan tài ba đang nắm những chức vụ chỉ huy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Tôi rất hănh diện được thụ huấn tại đây. Thực ra, khi tôi vừa đậu Tú Tài II xong cũng là lúc khai trương trường Vơ Bị mới và bắt đầu tuyển sinh viên sĩ quan cho khóa 16. Tôi đă có ư định nộp đơn t́nh nguyện đi học, nhưng mẹ tôi không muốn tôi đi vào con đường binh nghiệp nhiều nguy hiểm, nên tôi đă bỏ ư định này. Đă hai lần tôi thi vào Quân Y Hiện Dịch đều đậu cả để rồi đến phút chót lại đổi ư. Tôi c̣n nhớ lần cuối cùng khi tôi mang quần áo nhà binh về mặc thử để sửa soạn cho tuần sau chính thức nhập trường, cả nhà đều buồn, làm như tôi sắp phải đi xa vậy. Tôi thấy vô lư hết sức, nhưng v́ mẹ tôi không vui, tôi cũng chiều, bỏ luôn không gia nhập Quân Y nữa.

 

Dường như số mạng đă an bài nên dù mẹ tôi không muốn, khi ra trường tôi vẫn phải khoác áo nhà binh, chính thức gia nhập cuộc chiến. Tuy không có ǵ hào hứng lắm, v́ là một cuộc chiến tương tàn giữa những người Việt với nhau, nhưng ít ra nó cũng cho tôi một số kinh nghiệm sống để cuộc đời tôi đỡ nhàm chán đơn điệu.

 

Tôi cảm thấy rất hài ḷng đă đứng về phía quốc gia dân tộc chống lại một chế độ độc tài đảng trị, đă làm cho dân tộc tôi phải điêu linh khốn khổ trong mấy chục năm trời. Viết đến đây tôi lại cảm phục mẹ tôi v́ bà đă có quyết định rất đúng, rất can đảm khi đem anh em chúng tôi di cư vào Nam năm 1954 tránh họa Cộng Sản. Mẹ tôi đă nghĩ tới tương lai của chúng tôi nên đă phải rời bỏ bố mẹ, em trai của bà để t́m đất sống cho các con. Chính v́ vậy mà tôi không bao giờ muốn làm buồn ḷng mẹ.

 

Sau sáu tuần học tập cơ bản quân sự ở cấp Trung Đội Trưởng, khóa chúng tôi được đưa trở về Sài G̣n nghỉ ngơi một tuần rồi đến trường Quân Y để học về hành chánh Quân Y thêm bốn tuần nữa. Sau đó chúng tôi được lệnh tụ họp tại Cục Quân Y để được phân phối đi các đơn vị theo điểm đậu cao thấp.

 

Tôi đă chọn Trung Đoàn Xung Kích 43, Sư Đoàn 18 Bộ Binh ở Long Khánh cho gần nhà v́ chỉ cách Sài G̣n chừng 100 cây số. Tôi trở thành Đại Đội Trưởng Đại Đội 43 quân y trực thuộc Tiểu Đoàn 18 Quân Y do Y Sĩ Thiếu tá Phạm Hữu Hảo làm Chỉ Huy Trưởng. Tôi ở Trung Đoàn được 19 tháng nhưng tính ra chỉ có hai tháng được ở hậu cứ c̣n lại đi hành quân liên miên.

 

Trong thời gian đó tôi đă tham dự bốn trận đánh lớn. Một trong những trận tôi nhớ nhất là trận suối Long, trận đầu đời binh nghiệp của tôi mà Tây gọi là “baptême de feu” đă ghi lại nhiều kỷ niệm khó quên. Vị y sĩ, tôi tới để thay thế là bác sĩ Trần Minh Sơn.

 

Bác sĩ Sơn nói:

– Cuộc hành quân lần này đáng lẽ tôi phải đi, nhưng nay Quư về đây nên đi cho quen. V́ những người sắp thuyên chuyển đi nơi khác mà c̣n cố đi chuyến chót thường bị xui và dễ ngỏm lắm.

 

Tôi mỉm cười nói:

– Anh đừng ngại, tôi đi là đúng, nhân thể lấy thêm kinh nghiệm. Vả lại anh đă chịu cực nhiều lần rồi, anh cứ ở hậu cứ nghỉ ngơi cho khỏe.

 

T́nh h́nh quân sự lúc bấy giờ khá gay go. Sau những cuộc được gọi là cách mạng, chỉnh lư liên miên, sức mạnh quân sự ở miền Nam bị yếu đi nhiều. Mặc dù bị thất bại trong cuộc tổng công kích năm Mậu Thân, chính phủ Cộng Sản miền Bắc đă nhân cơ hội này củng cố lại lực lượng, tiếp tục xâm nhập miền Nam. Do đó nhiều trận đánh dữ dội đă xẩy ra. Trong thời điểm đó nhiều bác sĩ đă hy sinh tại mặt trận như Đoàn Mạnh Hoạch, Nguyễn Văn Nhứt, Nghiêm Sĩ Tuấn, Phạm Đ́nh Bách.

 

Những tin buồn liên tiếp đó không làm tôi nao núng. Tôi nghĩ rằng, đời người chỉ chết có một lần. sống làm sao cho đáng sống, đừng hèn là được. Thực ra những tư tưởng tốt đẹp ấy là kết quả của cả một sự giáo dục uốn nắn từ nhỏ của thế hệ tôi. Lấy từ những gương anh hùng liệt sĩ trong sử nước nhà cũng như ngay cả những người c̣n sống trước mắt tôi.

 

Tôi c̣n nhớ khi tôi theo cha mẹ tản cư từ Hà Nội về huyện Đông Quan, tỉnh Thái B́nh. Tôi được vào lớp của ông Thầy Uyển. Thầy mặc áo dài the đen, bị thọt một chân. Tôi được nghe kể rằng thầy hoạt động cách mạng, theo Việt Nam Quốc Dân Đảng. Khi bị mật thám Pháp vây bắt, thầy đă nhẩy từ lầu hai xuống trốn chạy, không may bị gẫy xương đùi. Lúc bấy giờ thầy không được chữa trị đúng cách nên thành tật, đi đứng rất khó khăn. Bởi vậy thầy rất ít di chuyển trong lớp. Thầy giữ kỷ luật bằng một cái roi dài quá khổ, làm bằng một cành trúc. V́ lớp học quá nhỏ nên dù cho ngồi cuối lóp, anh nào nghịch ngợm cũng không thoát khỏi bị thầy gơ đầu mà không cần phải đi một bước nào. Sau khi được nghe câu chuyện cách mạng của thầy, tôi rất lấy làm kính trọng cảm phục thầy. Rồi khi lớn lên, được biết thêm gương ái quốc của những nhà cách mạng yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan Đ́nh Phùng, Trần Cao Vân, Nguyễn Thái Học cùng 12 liệt sĩ … đă hy sinh trọn đời ḿnh để mong giành độc lập cho nước nhà, thoát khỏi ách đô hộ của người Pháp. Gương hy sinh của những vị anh hùng đó đă kích thích và nuôi dưỡng ḷng yêu nước của thế hệ thanh niên chúng tôi.

 

Cuộc hành quân đó kéo dài 11 ngày. Bốn ngày đầu b́nh yên không có ǵ xẩy ra. Tôi c̣n nhớ sau khi được trực thăng vận xuống băi đáp, v́ là lính mới ṭ te, tôi chẳng có kinh nghiệm chiến trường ǵ cả. Nhảy ra khỏi trực thăng xong, tôi c̣n đi tản bộ ngắm nh́n đồi núi xung quanh y như đi cắm trại. Khiến ông Trung úy Hoàng Thúc Kháng, phụ tá Ban 3 Trung Đoàn, khóa 20 Vơ Bị Đà Lạt, sợ quá chạy lại kéo tay tôi ngồi xuống, hấp tấp nói:

– Bác sĩ t́m chỗ núp đi, đừng đi lớ ngớ như vậy. Tụi nó hay pháo vào băi đáp, nếu không nó cũng bắn sẻ nữa, nguy hiểm lắm.

 

Nghe nói như vậy tôi mới giật ḿnh cám ơn Kháng, rồi nh́n chung quanh mới thấy toàn bộ binh lính đă biến đi đâu mất. Th́ ra họ đă lẩn sau những gốc cây hoặc t́m chỗ núp. C̣n một số ở gần tôi đều đă ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, chứ đâu có nhởn nhơ như tôi.

 

Ngồi cách tôi chừng mười thước, Đại úy Trưởng Ban 2 Trung Đoàn Phạm Tạ Từ nh́n tôi nháy mắt cười thông cảm. Sau đó Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn bắt đầu di chuyển vào rừng để tiến tới mục tiêu thứ nhất. Đại úy Từ đi sát bên tôi dặn:

– Bác sĩ đi trong rừng phải để ư từng bước chân, thấy ǵ lạ đừng có đá hoặc sờ mó, đề pḥng nó gài lựu đạn hoặc gài ḿn. Phải để ư bám sát người phía trước, v́ di chuyển nhanh lắm nếu không sẽ bị lạc.

 

Tôi gật đầu ghi nhớ lời khuyên quí báu đó. Quả nhiên khi đă vào sâu trong rừng, cây cối quá rậm rạp, cách nhau năm thước đă không thấy người v́ màu áo nhà binh với màu cây rừng rất khó phân biệt.

 

Đi độ chừng một giờ, tới một chỗ rừng thưa tôi thấy một cây cổ thụ khá lớn ngang lối đi. Trên một cành cây mục, có một cây phong lan hoa trắng rất đẹp. Tôi nói với ông trung sĩ nhất quân y Nguyễn Đức Tư, người phụ tá cho tôi, rất nhiều kinh nghiệm chiến trường:

– Này ông Tư, cây hoa lan kia đẹp quá. Khi hành quân về qua đây, tôi sẽ lấy mang về chơi.

 

Trung sĩ Tư mỉm cười thương hại nh́n tôi nói:

– Khi về, ḿnh sẽ đi đường khác, không đi đường này nữa đâu mà bác sĩ đ̣i lấy hoa.

 

Tôi hơi ngượng v́ thấy ḿnh quả thực ngây thơ quá.

 

Tới ngày thứ tư, thám báo cho biết có nghe thấy tiếng đốn gỗ trong rừng. Đi sâu thêm, thấy có một mật khu rất lớn của địch cách đây chừng hai cây số. Tin tức được báo về Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn. Trung đoàn tôi được lệnh tấn công ngay. Đến khoảng 5 giờ chiều chúng tôi tới mật khu đó, chỉ cách có con suối Long. Tuy mới 5 giờ chiều nhưng ở trong rừng cây rậm rạp, trời đă tối mờ mờ, vừa dừng quân là mọi người lo đào hố cá nhân ngay.

 

Cận vệ của tôi là Binh nhất Huỳnh Văn Bá, người lo đào hầm, giăng vơng cho tôi, cũng như coi sóc về phần ăn uống. Vừa ăn xong cơm tối, tôi đi lên Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn cách chỗ tôi chùng 20 thước xem có tin tức ǵ không. Tới nửa đường, địch bắt đầu pháo kích vào Bộ Chỉ Huy bằng súng cối. Nghe ục một cái là tiếng pháo bắn đi, toàn bộ lính đă biến đi đâu mất. Khi tiếng nổ vang lên, tôi thấy lóe lửa sáng cách chỗ tôi đứng chùng 50 thước, lúc bấy giờ tôi mới cuống lên lo đi t́m hầm núp. Tôi khom người chạy về khu Quân Y. Đang chạy th́ nghe tiếng bắn đi nữa. Lần này có kinh nghiệm rồi, thoáng thấy cái hố cá nhân trước mặt, tôi cứ lăn đại vào, đè lên mấy người trong đó. Tôi bị đẩy ra, có tiếng trung sĩ Tư nói:

– Ở đây chật rồi, em đi kiếm chỗ khác đi.

 

Tôi biết trong bóng tối, ông Tư không nhận ra tôi. Tôi lồm cồm ḅ ra bên ngoài. Trong lúc lúng túng cái mũ sắt rơi xuống văng đi đâu không biết. Cũng may địch không pháo kích nữa. Tôi đành đi lần về chỗ tôi ở. Binh nhất Bá nhận ra tôi, mừng rỡ nói:

– Bác sĩ đi đâu, em không thấy, lo quá.

 

Tôi kể sơ chuyện cho anh Bá nghe và nhờ Bá đi kiếm chiếc nón sắt cho tôi. Vài phút sau anh trở về tay cầm cái nón sắt của tôi. Anh nói:

-Trung sĩ Tư nhờ em nói xin lỗi bác sĩ, v́ tối quá không nhận ra.

– Tôi biết, không sao đâu.

 

Cuộc tấn công mật khu đó về phía bên kia tôi không biết, nhưng về phía trung đoàn có hai mươi mốt người tử thương và tám mươi bốn người bị thương.

 

Trong số người tử thương có bốn sĩ quan.

 

Tôi tuy chẳng phải là nhà quân sự, nhưng với trí hiểu biết thông thường tôi chẳng dại ǵ mà xua quân lên tấn công, v́ như vậy chắc chắn sẽ bị thiệt hại nặng. Mạng người là quí. Nếu tôi cầm quân, khi đă thấy được mật khu địch rồi, tôi sẽ dàn quân bao vây ba mặt. Cho pháo tối đa nát bét căn cứ của địch, rồi thong thả lên chiếm mục tiêu, đỡ thiệt hại nhân mạng, đỡ vất vả hơn.

 

Mặt trận suối Long

 

Sau trận suối Long kinh hoàng đó, tôi trở về an toàn. Nghỉ tại hậu cứ hai tuần, tiễn bác sĩ Sơn về làm việc tại TổngY Viện Cộng Ḥa. Sau đó Trung đoàn tôi được lệnh sửa soạn lên đường hành quân nữa. Lần nay nghe báo sẽ đi lâu hơn v́ phải nằm bảo vệ cho Công Binh Mỹ làm Quốc lộ 20 từ Biên Ḥa lên Gia Kiệm, Túc Trưng, Định Quán, Đà Lạt. Trung Đoàn tôi đóng tại đồi Dốc Mơ, Gia Kiệm. Tôi lại được tham dự một trận đánh lớn khác ở Túc Trưng. Lần này quân địch thua nặng.

 

Những lần đi hành quân trong rừng, mỗi khi đụng trận, có người bị thương, ngoài việc băng bó rồi di tản thương binh, tôi không thể làm ǵ hay hơn được. Tôi tự nghĩ, sự hiện diện của ḿnh ở đây thật không cần thiết, v́ một y tá có thể làm được những việc đó. Nên tôi có ư định xin về một bệnh viện, đó mới là đất đụng vơ của ḿnh. Tôi làm đơn xin theo học khóa Giải Phẫu Binh Đoàn. Sau vài tháng, đơn tôi được chấp thuận. Tôi đă rời Trung Đoàn 43 về Tổng Y Viện Cộng Ḥa thụ huấn một năm chuyên về giải phẫu.

 

Sau khi măn khóa, tôi chọn Bệnh Viện Tiểu Khu B́nh Long v́ gần Sài G̣n và cũng v́ vị Tỉnh Trưởng ở đây không phải ai xa lạ, chính là Đại tá Trần Văn Nhựt, Nguyên Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 cũ của tôi. Đi làm chỗ lạ mà có quen biết trước, nhất là với xếp lớn th́ yên tâm.

 

Mấy năm trước, tên B́nh Long thật xa lạ đối với tôi. Hóa ra đó chỉ là môt tỉnh nhỏ gần biên giới MiênViệt, ở phía Tây Bắc và cách Sài G̣n chừng 100 cây số.

 

 B́nh Long - An Lộc trước 1972

 

Tỉnh thuộc vùng cao nguyên đất đỏ với những dăy đồi chập chùng bao quanh, trông thật hùng vĩ và đẹp mắt. Vào mùa Thu, sương mù bao phủ núi đồi, giống như Đà Lạt, chỉ khác Đà Lạt có nhiều thông, c̣n B́nh Long toàn cây cao su.

 

Xưa kia, B́nh Long có tên Hớn Quản, một phần của tỉnh B́nh Dương. Sau này v́ lư do chiến lược, tỉnh được thành lập nằm dọc theo Quốc lộ 13 và gồm có ba quận là Chơn Thành, An Lộc và Lộc Ninh.

 

Ở Sài G̣n, nghe nói tới B́nh Long ai cũng ngán. Quả thực vậy, mấy năm trước đây, tỉnh lúc nào cũng bị Việt cộng phá rối, làm mất an ninh. Địch pháo kích hàng ngày, đặt ḿn, phục kích dọc Quốc lộ 13, thành ra ít ai dám đi đường bộ. Nhưng từ ngày có những cuộc hành quân vượt sang Cambodge, phá vỡ những cơ sở hậu cần của địch, đồng thời Quốc lộ 13 được tu bổ lại nên tỉnh B́nh Long lại là một trong những tỉnh an ninh nhất tại Vùng III Chiến Thuật. Suốt một năm qua, không có một vụ pháo kích nào. Đường Sài G̣n – B́nh Long xe cộ đi đi về về thoải mái, không c̣n những vụ chận đường bắt cóc nữa.

 

Đất đai B́nh Long rất ph́ nhiêu. Đa số những đất canh tác được đều thuộc những đồn điền cao su của người Pháp như đồn điền Quản Lợi, đồn điền Lộc Tấn và các chi nhánh của những đồn điền này như đồn điền Xa Cam, Minh Thạnh, Xa Cát, Xa Trạch… có đến 80 phần trăm dân số của tỉnh đều là cựu công nhân của những đồn điền trên. Trong đó có nhiều người gốc ở Bắc đă được mộ làm phu cho đồn điền từ những năm trước Thế Chiến Thứ Hai. Họ vẫn c̣n giữ nguyên phong tục tập quán, cùng giọng nói đặc biệt người Bắc như mới di cư vào. Lần đầu tiên gặp họ tôi ngạc nhiên lắm, sau hỏi ra mới biết tuy họ vào đây đă lâu nhưng lại sống tụ tập với nhau nên không pha tiếng.

 

Ở tỉnh này c̣n có một ít người Dân Tộc Thiểu số, như người Việt gốc Miên, và các sắc dân Thượng. Đa số thuộc giống Stiêng ở các sóc xa xôi. Gần đây với vài dự án di dân lập ấp của chính quyền, những sóc mới được thành lập quanh tỉnh nên dân Thượng về sống khá đông. Như các sóc Bé, sóc G̣n, ấp Chà Là Tân Khai, ấp Thu Bồn… số c̣n lại là dân tứ phương về đây sinh sống làm ăn.

 

Dân số của tỉnh tổng cộng vào khoảng 80 ngàn người. Một số là công nhân đồn điền, một số sống về nghề làm cây, làm than, làm vườn, trồng tỉa. Mặc dù mức sống tương đối thấp, nhưng tỉnh đang trên đà phát triển với công tŕnh di dân lập ấp rộng lớn. Quận An Lộc là quận châu thành, tức là quận thủ phủ của tỉnh B́nh Long. Có một khu phố thương mại khá sầm uất với những nhà lầu, kiến trúc bằng vật liệu nặng, xây chung quanh một cái chợ lớn. Ngoài ra c̣n khu phố cũ, có những nhà gạch ngói hai bên một đại lộ rất rộng. Đời sống ở đây có vẻ b́nh dị. Cả tỉnh có một rạp chớp bóng nhưng không hoạt động từ lâu.

 

Tỉnh tọa lạc trên một dăy đồi nên vấn đề nước hơi khan hiếm. Điện cũng rất yếu kém. Một số nhà có tiền mua máy phát điện riêng. Công ty Điện Lực đang dự tính thiết trí điện cho toàn tỉnh với những máy phát điện có công suất lớn. Công việc đang tiến triển một cách khả quan th́ xảy ra cuộc chiến làm cho bốn máy phát điện mới mua của công ty bị hoàn toàn phá hủy.

 

Tỉnh giữ một địa thế chiến lược quan trọng. V́ một khi B́nh Long mất th́ B́nh Dương sẽ lâm nguy và Sài G̣n sẽ bị đe dọa trầm trọng. Một điểm yếu của B́nh Long là chỉ liên lạc được với các tỉnh lân cận bằng một con đường độc nhất: Quốc lộ 13. Một khi con đường này bị cắt, kể như B́nh Long bị cô lập.

 

Về phương diện y tế, tỉnh B́nh Long có một nhà thương phối hợp Dân Quân Y, được gọi là bệnh viện Tiểu Khu B́nh Long. Ngoài ra tại mỗi quận đều có một Chi Y Tế, và tại mỗi đồn điền đều có một nhà thương riêng. Bệnh viện tỉnh được xây trên một phần của một ngọn đồi khá lớn, rộng chừng 3000 mét vuông. Có bốn dăy nhà song song là những trại bệnh. Một dăy nhà ngang là Pḥng Giải Phẫu, Pḥng Hành Chánh, một kho thuốc và y cụ ở sau Nhà Bảo Sanh.

 

Bệnh viện có 103 giường, chỉ có ba bác sĩ điều trị, một Nội Khoa, bác sĩ Lê Hữu Chí bạn cùng lớp với tôi, một Sản Phụ Khoa, bác sĩ Nguyễn Phúc, kiêm Trưởng Ty Y Tế, một lo về Ngoại Khoa là tôi. Ngoài ra, bệnh viện c̣n có thêm một bác sĩ Hoa Kỳ, bác sĩ David Risch thuộc phái đoàn MILPHAP10 cùng làm chung với tôi về Ngoại Khoa. Khi cuộc chiến bùng nổ, bác sĩ Risch vắng mặt v́ đang đi nghỉ phép.

 

Tham dự trận này,về phía y sĩ có 16 người thuộc đủ mọi đơn vị ở đây. Ngoài những vị thuộc Tiểu Đoàn 5 Quân Y và bệnh viện Tiểu Khu B́nh Long phối hợp làm việc chung ngay tại bệnh viện, các vị khác mỗi người điều khiển một trạm cứu thương cấp Tiểu đoàn hay Trung đoàn. Nơi đây những người bị thương nhẹ được chữa trị ngay tại chỗ. Chỉ những người bị nặng cần những cuộc giải phẫu lớn như mổ bụng, nối mạch máu, thông phổi hay thiết đoạn tay chân mới được gửi về bệnh viện để tôi giải phẫu.

 

Tôi vẫn lấy làm phấn khởi về sự đoàn kết, tương trợ giữa những đơn vị Quân Y tại chiến trường An Lộc. Khi bệnh viện đă cạn đồ tiếp liệu, chính các anh ở Biệt Cách Dù đă mang cho chúng tôi những chai nước biển. Các anh ở Đại Đội 52 Quân Y đă cho tôi từng cặp găng tay, từng sợi chỉ để may các vết thương. Mỗi khi tôi ngỏ ư cần ǵ các anh sẵn sàng đi lùng kiếm mang về để tôi có đủ phương tiện làm việc. Các anh ở Đại Đội 1 Quân Y Dù đă chia cho tôi mọi thứ thuốc cần thiết. Những cử chỉ đẹp ấy chắc không bao giờ tôi quên.

 

Công tác giải phẫu của tôi tại mặt trận B́nh Long có thể chia làm ba thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là những ngày đầu của cuộc chiến, từ ngày 5 tháng 4 năm 1972 đến 12 tháng 4 năm 1972, giai đoạn công tác giải phẫu được hoàn thành tốt đẹp nhất. V́ số bệnh nhân tương đối ít, bệnh viện c̣n đầy đủ thuốc men, dụng cụ khử trùng đúng qui tắc.

 

Thời kỳ thứ hai trùng với cuộc tấn công đợt nhất của Việt Cộng. Đây là thời kỳ đen tối nhất. Chúng tôi làm việc trong những điều kiện nguy hiểm, lo âu, sợ sệt, thiếu thốn đủ mọi đường. Bệnh viện không có hầm cứu thương. Tôi đă làm việc trong một pḥng mổ tiền chế, trần bằng carton, mái lợp tôn, không có ǵ bảo đảm an ninh cả. Mọi nghi thức giải phẫu đều được giản dị hóa đến mức tối đa, chỉ c̣n cặp găng tay. Chúng tôi cởi trần, mặc áo giáp, đội mũ sắt để thay áo choàng mổ, v́ trong khi làm, Việt Cộng vẫn pháo kích nổ ầm ầm chung quanh.

 

Nước hết, điện không có, mọi tiện nghi đều là con số không. Công tác giải phẫu bây giờ chỉ giới hạn trong việc thiết đoạn tứ chi, thông phổi, mổ khí quản cấp cứu và làm tiểu giải phẫu. Các vết thương bụng không mổ được. Cũng may trong thời gian đó chỉ có sáu người bị thương bụng. Hai người không mổ vẫn sống.

 

Thời kỳ thứ ba trùng với cuộc tấn công đợt hai của Việt Cộng. Lúc này pḥng mổ đă được dọn sang Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Chúng tôi có chỗ an toàn để làm việc trong một cái hầm ngầm xây bằng bê tông cốt sắt. Nơi đây tôi đă tổ chức một pḥng mổ dă chiến, tuy đơn giản nhưng có khả năng làm được những cuộc mổ lớn. Đây là thời kỳ tôi tích cực làm việc nhiều nhất mặc dù c̣n rất nhiều thiếu thốn trở ngại.

 

An Lộc 1972

Trước ngày nhập trận, trong pḥng tại bệnh viện

 

Đêm ngày 4 tháng 4 năm 1972, rạng ngày 5 tháng 4 vào khoảng một giờ sáng, đang ngủ trong pḥng trực ở nhà thương, tôi bỗng giật ḿnh tỉnh dậy v́ nhiều loạt súng nổ xé màn đêm ở phía đồn điền Quản Lợi, một đồn điền ở phía Tây Bắc, cách bệnh viện chừng ba cây số. Mấy lúc sau này, t́nh h́nh có vẻ căng thẳng. Thỉnh thoảng có những vụ chạm súng nhỏ nhưng rất ngắn vào ban đêm. Tôi cũng đă quá quen nên không để ư mấy, nhưng đêm nay sao súng nổ lâu rồi mà vẫn chưa dứt, lại thêm có nhiều tiếng súng lớn nữa. Tôi nghĩ thầm chắc có đụng độ mạnh.

 

Tôi nằm thao thức suy nghĩ, hồi lâu giấc ngủ mới đến với tôi. Mệt mỏi v́ hai cuộc giải phẫu lúc ban ngày, tôi đă đánh một giấc cho tới sáng. Không biết rằng những tiếng súng đó đă báo hiệu một trận chiến thảm khốc sắp mở màn.

 

 

 

NHỮNG NGÀY ĐẦU

 

 

Ngày 5 tháng 4 năm 1972

 

Sau khi săn sóc và khám lại những bệnh nhân mổ hôm qua, tôi từ Pḥng Hậu Giải Phẫu đi ra pḥng Ngoại Chẩn. Vừa tới ngang Pḥng Hấp Y Cụ, tôi bỗng nghe thấy một tiếng hú rất kỳ lạ rít qua đầu và trong tích tắc một tiếng nổ dữ dội vang lên gần đâu đây. Biết có pháo kích, tôi và tất cả những người trong bệnh viện vội t́m chỗ núp. Chỉ trong nháy mắt, tôi đă thấy ḿnh ngồi nép sát bên một kệ đựng dụng cụ y khoa trong Pḥng Hấp. Trống ngực tôi đánh th́nh th́nh, hồi hộp chờ đợi một tiếng nổ thứ hai và có thể nhiều hơn nữa, nhưng vài phút trôi qua vẫn yên lặng.

 

Tôi hoàn hồn nh́n quanh, thấyTrung sĩ Đắc, Binh nhất Đức, và cô y tá Huệ cũng ở trong Pḥng Hấp như tôi. Tôi mỉm cười từ từ đứng dậy, rảo bước đi về trại Ngoại Khoa của tôi ở sau Pḥng Hấp. Tôi nghĩ rằng, nếu c̣n pháo kích nữa th́ nấp ở trại Ngoại Khoa có vẻ an toàn hơn, nhất là ở hành lang giữa trại. V́ trại có mái ngói, có trần nhà, và hai bên có tường gạch nên có thể tránh được miểng đạn. Mặc dù trần nhà làm bằng vật liệu rẻ tiền rất đơn so; nhưng theo kinh nghiệm chiến trường của những người lính tôi quen, nếu pháo kích bằng súng cối 82 ly, đầu đạn chạm vào mái ngói là nổ ngay, thành ra không đáng sợ. C̣n như pháo kích bằng hỏa tiễn 122 ly th́ vô phương, lúc đó chỉ đổ tại cho số mạng thôi.

 

Vào trong trại, tôi thấy tất cả các bệnh nhân c̣n ngồi dưới sàn nhà. Người nào không đi đứng được đành nằm trên giường, giương đôi mắt lo lắng nh́n tôi. Tôi thấyTrung sĩ Lạng, y tá trưởng trại xuất hiện ở cửa PḥngTrực Y Tá, nh́n tôi cười gượng gạo, khịt khịt cái mũi bị viêm mũi dị ứng kinh niên. Tôi tiến đến chiếc bàn kê trước pḥng trực ở ngoài hành lang, dùng để làm nơi phát thuốc và ghi chép giấy tờ. Tôi vừa định ngồi xuống, một tiếng rít bay qua mái ngói bệnh viện. Mọi người lại rạp xuống, nhưng nghe tiếng nổ hơi xa. H́nh như ở phía Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu nên mọi người cũng đỡ sợ.

 

Lần này rút kinh nghiệm, khi đạn réo qua đầu nó sẽ không nổ ở chỗ ḿnh đang đứng nên tôi vẫn ngồi yên trên ghế. Vả lại, ở hành lang này tôi cảm thấy yên ḷng hơn ở ngoài sân nhiều. Tôi trầm ngâm ngồi chờ đợi. Chừng mười phút sau, tôi thấy không có ǵ, bèn đi lên Pḥng Cấp Cứu xem có ai bị thương không. Không có ai cả. Nhân viên túa ra sân nói cười vui vẻ. Bệnh viện trở nên huyên náo lạ. Từ chục năm nay họ đă quen với những vụ pháo kích rồi. Sau khi thấy ḿnh vô sự, họ hân hoan kể cho nhau nghe những cảm giác sợ hăi khi nghe tiếng đạn réo qua đầu.

 

Tôi bước vào Pḥng Hậu Giải Phẫu. Cô Lâm, cô Trí, hai cô y tá Pḥng Mổ đang cười ngặt nghẽo. Cô Lâm vừa cười vừa nói:

– Bác Sĩ ơi, chị Trí chui xuống gầm bàn.

 

Cô Trí thu người lại, làm dáng điệu rùng ḿnh nói:

– Em sợ quá, nghe đánh vèo một cái, lạnh cả xương sống. Thấy cái bàn em chui đại vào, chắc bây giờ vẫn c̣n run.

 

Tôi mỉm cười, nghĩ tới phản ứng tự nhiên của con người khi gặp nguy hiểm, đôi khi vô lư tới tức cười như núp dưới một chiếc bàn gỗ mong manh để mong tránh đạn pháo kích. Thực ra tôi cũng vậy, tôi đă chả nép sát bên tủ đựng dụng cụ Y Khoa trong Pḥng Hấp là ǵ. Nhưng nhờ thế mà một số người đă tránh được những thương vong.

 

Cửa pḥng bật mở, một y tá hấp tấp bước vào:

– Thưa bác sĩ, ông Long chết rồi!

 

Tôi giật ḿnh hỏi:

– Ông Long nào?

– Thưa bác sĩ, ông Long gác cổng đó. Trái hỏa tiễn đầu tiên rơi sát ṿng rào bệnh viện, gần cổng, làm thủng một lỗ lớn ở vách tường nhà gác, mái tôn bay đi mất luôn. Một anh thuộc Tiểu Đoàn 5 Quân Y ra xem hố pháo kích, thấy cạnh đấy một đống đen, lại gần mới hay là ông Long đă nằm chết tự bao giờ.

 

Tôi bước nhanh ra cửa, vừa tới thềm nhà th́ thấy hai người lính đang khiêng thi hài ông Long đi ngang qua. Đàng sau, cô con dâu đi theo khóc nức nở. Chồng cô ta là lính cũng mới chết cách đây mấy tháng. Xác ông Long nằm trên chiếc cáng, đầu nghẹo về bên phải để hở một vết thương lớn phía trên cổ gần sau ót, và một vết nữa ở ngực gần vai trái. Máu nhuộm đỏ thẫm chiếc áo màu xám rách nát và đầy đất đỏ. Chắc chắn ông Long đă chết ngay sau tiếng nổ, và như vậy ông đỡ phải chịu nhiều đớn đau do vết thương gây nên.

 

Tôi ít tiếp xúc với ông, nhưng h́nh dáng một ông già gầy g̣, độ 55 hay 56 tuổi, có bộ ria mép muối tiêu, dáng đi khập khễnh khó khăn, đă quá quen thuộc đối với tôi sau gần một năm làm việc tại bệnh viện này. Một nhân viên nói với tôi, ông ấy lúc trước cũng là lính, bị thương hai lần, lần chót do mảnh B40 ghim ngay đùi trái, vết thương làm ông thành tật, đi bước thấp bước cao. Ông được giải ngũ sau đó và giữ chân gác cổng cho nhà thương này được vài năm nay.

 

Tôi ngậm ngùi nh́n theo đám người đưa thi hài ông ra nhà xác. Định mệnh oan nghiệt đă không buông tha cho gia đ́nh ông. Tôi nghĩ đến thân phận con người thời chiến, thực không biết thế nào mà lường được. Nay sống mai chết, chỉ một tích tắc thôi là thay đổi tất cả.

 

Tin ông già Long chết làm mọi người trong bệnh viện xôn xao. Những nụ cười đă tắt trên môi để nhường cho những nét mặt đăm chiêu, tư lự. Họ đang nghĩ tới những cuộc pháo kích sắp tới, và những nguy hiểm đang ŕnh rập chờ đợi họ. Nếu tai nạn xảy ra ở một nơi nào khác trong tỉnh th́ không ảnh hưởng ǵ, nhưng nay lại xảy ra ngay tại bệnh viện th́ đương nhiên làm nhiều người phải suy nghĩ lo âu.

 

Những tin đồn về địch quân đánh chiếm LộcNinh, tấn công Quản Lợi, cắt đứt Quốc lộ 13 lan đi nhanh chóng, càng làm mọi người hoang mang. Tôi bối rối. Bệnh viện giờ chỉ c̣n hai bác sĩ, bác sĩ Lê Hữu Chí và tôi. Bác sĩ Nguyễn Phúc – Trưởng Ty Y tế không có mặt, v́ mắc đi dự khóa hội thảo B́nh Định Phát Triển tại Vũng Tàu và kẹt tại đó chưa về được. Trung úy sĩ quan quản lư Phạm Ngọc Quư cũng bị kẹt ở Biên Ḥa v́ đi công tác liên lạc Liên Đoàn 73 Quân Y. Về phía Hành Chánh chỉ c̣n Thiếu úy Phạm Quang Thu phụ trách về nhân viên.

 

Tôi là bác sĩ giải phẫu độc nhất tại bệnh viện và sau này của cả chiến trường An Lộc, được chỉ định làm Xử Lư Thường Vụ thay thế bác sĩ Phúc đi công tác. V́ vậy, ngoài công việc giải phẫu điều trị cho các thương binh và nạn nhân chiến cuộc càng ngày càng gia tăng, tôi c̣n phải lo điều hành chỉ huy mọi việc vừa hành chánh lẫn quân sự trong đơn vị và Ty Y Tế. Thật là một gánh nặng cho tôi. Nhất là trong t́nh trạng hiện tại, nh́n mấy chàng lính Quân Y ngơ ngơ ngác ngác không quen chiến trận. Vũ khí của họ chỉ là khẩu súng Carbine M1 với vài băng đạn, làm sao tôi có thể bảo toàn được đơn vị trong trường họp tỉnh B́nh Long bị tấn công? Đặc biệt là về phương diện y tế, liệu với khả năng hiện có của bệnh viện, tôi có thể hoàn tất mỹ măn công tác điều trị và tản thương cho một số lớn vừa quân vừa dân không? Câu trả lời rất dễ, chắc chắn là không rồi. Nhưng tôi tự nhủ là sẽ cố gắng làm hết sức ḿnh, tới đâu hay tới đó. Trong những công tác khó khăn, ḿnh có hoàn thành được mới hơn người. Ư tưởng đó làm tôi phấn khởi.

 

Tôi tự nghĩ, điều quan trọng hiện giờ là vấn đề tổ chức và phối trí. Hơn lúc nào hết câu châm ngôn “chỉ huy là tiên liệu” vang lên trong óc tôi. Cũng cùng một mối lo như tôi, bác sĩ Chí nhắc tôi:

– Mày cho lệnh cấm trại 100 phần trăm đi, không tụi nó trốn hết bây giờ.

 

Tôi đồng ư. Tôi đă dự trù xong kế hoạch sơ khởi về pḥng thủ và cấp cứu tản thương. Tôi kêuTrung sĩ X̣m:

– Anh Sáu ra mời Thiếu úy Thu tới gặp tôi.

 

Vài phút sau, Thiếu úy Thu tới:

– Thưa bác sĩ kêu tôi?

 

Tôi gật đầu. Chúng tôi đứng nói chuyện trước hiên pḥng mổ.

– Ông cho tập họp tất cả các binh sĩ lại. Điểm danh. Đọc nhật lệnh cấm trại 100 phần trăm. Chỉ thị cho các anh em xem lại súng đạn, giày vớ, mũ sắt. Cắt toán gác cổng, cắt toán tuần pḥng ban đêm. Sửa sang lại các hầm hố cá nhân, các hầm trú ẩn. Cắt các toán cấp cứu. Xem xét lại máy móc của các xe Hồng Thập Tự, xăng nhớt phải đầy đủ. Tài xế xe Hồng Thập Tự phải thay phiên nhau trực 24 trên 24. Mỗi xe, không kể tài xế phải có bốn nhân viên khiêng cáng và có ít nhất hai cáng với túi cứu thương. Nội trong ngày hôm nay phải làm xong tất cả rồi báo cáo cho tôi biết. Phần ông như vậy tạm đủ. Ḿnh đang thiếu người, làm việc hơi cực một chút, ông nên khuyến khích anh em đừng coi thường, kỳ này đánh lớn đó.

 

Từ trên thềm khu Hậu Giải Phẫu, cao hơn sân bệnh viện chừng 40 phân, tôi bước xuống sân đi tới pḥng cấp cứu gặp cô Cúc và cô Phúc, y tá pḥng cấp cứu đang đứng ở đó. Cô Cúc có biệt danh là Cúc Lùn hay Cúc Đồng v́ tên cô là ĐồngThị Cúc và hơi thiếu bề cao. Cô có dáng người khỏe mạnh, cô học một năm Vovinam. Tôi được nghe kể lại, có lần không hiểu v́ cớ ǵ cô đá bay một chàng lính Quân Y, khiến hắn ta dậy không nổi. Cô rất thích nghe chuyện tiếu lâm. Lúc nào thấm ư cô cất tiếng cười, cả nhà thương bốn trại, năm pḥng đều nghe tiếng. Vừa thấy tôi, cô cất cao giọng tinh nghịch hỏi:

– Bác sĩ, sợ không bác sĩ?

 

Tôi gật đầu, cười đáp:

– Sợ chứ. Nhưng hiện giờ tôi có việc này nhờ cô làm ngay cho.

 

Cô Cúc nhanh nhẩu cướp lời:

– Việc ǵ bác sĩ?

 

Vẫn giọng tinh nghịch, Cúc tiếp:

– Bác sĩ có việc ǵ cứ ra lệnh, là em làm ngay.

 

Tôi không trả lời vội, đưa mắt nh́n qua tủ thuốc trực, thấy chỉ c̣n vài ba chai Ringer’s Lactate, Destrose, và Sodium, một dăy hộp thuốc chích, thuốc viên đủ loại. Chiếc ống nghe, cái máy đo huyết áp để lỏng chỏng phía góc tủ.

 

Tôi nh́n cô Cúc nghiêm trang nói:

– Như cô đă thấy, với t́nh h́nh khẩn trương như hiện nay, có thể bệnh viện sẽ tiếp nhận một số lớn người bị thương. Tôi muốn mọi người lúc nào cũng phải có ít nhất hai mươi chai nước biển, cùng dây truyền nước đầy đủ, các loại thuốc cấp cứu như SAT, Demerol, thuốc trụ sinh, thuốc cầm máu… cùng bông băng, các thuốc sát trùng như Phisohex, hoặcThimerosal và những thứ khác nữa. Bây giờ cô lo lập phiếu xin ở kho và lănh ngay càng sớm càng tốt, tôi sẽ kư sau.

 

Nói xong tôi để Cúc đi làm phiếu lănh thuốc. Tôi đứng trầm ngâm nh́n quanh Pḥng Cấp Cứu. Thật không có Pḥng Cấp Cứu nào tồi tệ hơn. Pḥng lúc nào cũng thiếu ánh sáng v́ không có bóng đèn điện. Pḥng rộng 4 thước, dài 7 thước. Hai mặt có cửa sổ, một cửa ra vào và một cửa hông thông ra Pḥng Ngoại Chẩn. Mái lợp tôn và không có trần nên từ 11 giờ trở đi là nóng như thiêu như đốt. Mùa mưa th́ dột v́ mái bị thủng do những mảnh pháo kích mấy năm trước chưa được sửa lại.

 

Phụ trách Pḥng Cấp Cứu có tám nhân viên (bốn Quân Y, bốn Dân Y). Tuy nhiên trong những trường hợp cần thiết, số nhân viên có thể tăng lên nhiều do các y tá ở các trại bệnh khác được điều động tới để tiếp tay. Đó là một ưu điểm của một bệnh viện nhỏ, không thủ tục giấy tờ hành chánh rườm rà, lúc nào cũng gọn nhẹ, và năng động, rất dễ dàng điều khiển cho hợp vói nhu cầu. Tôi đặc biệt thích điểm này v́ nó đă tiết kiệm được rất nhiều tiền, nhiều th́ giờ, và có khi cả sinh mạng nữa.

 

Với một Pḥng Cấp Cứu nhỏ xíu như vậy chỉ cần năm bệnh nhân vào một lúc là pḥng chật cứng khó bề xoay sở. Lại thêm những kẻ hiếu kỳ, và thân nhân của bệnh nhân, đă xông đại vào pḥng, bất cần lời cấm đoán của bác sĩ và nhân viên, lại càng gây thêm trở ngại trong việc săn sóc bệnh nhân.

 

Những người đó làm tôi bực ḿnh không ít. Tôi ít khi nào to tiếng với ai v́ lúc nào tôi cũng tôn trọng nhân vị người khác và rất thông cảm mối quan tâm của họ với người thân. Vậy mà đôi khi tôi phải lớn tiếng hoặc dọa bỏ đi không làm việc nữa, họ mới lùi lại một chút để khi có cơ hội lại lấn vào như cũ.

 

Tôi thông cảm với một bệnh viện nhỏ thiếu thốn đủ mọi phương tiện, riết rồi cũng quen đi. Tôi cứ chú tâm vào việc ḿnh làm, không cần để ư tới những khó chịu ấy nữa.

 

Trong trường hợp nếu có trận chiến xảy ra, vào cả trăm người th́ sao? Tôi thầm tự hỏi. Tôi ngước lên nh́n dăy hành lang khu Nội khoa, nằm phía trước pḥng cấp cứu. Dăy hành lang cao ráo sạch sẽ dài tới 40 thước, có thể tạm làm nơi cấp cứu nạn nhân trong khi chờ đợi di chuyển những người đă được chăm sóc xuống trại.

 

Có tiếng thắng xe làm tôi nh́n ra. Một chiếc xe Jeep không mui đă ngừng trước cửa. Hai người lính trên xe nhảy xuống, nhanh nhẹn lấy một chiếc băng-ca dựng dọc theo tường pḥng cấp cứu để xuống đất, rồi cố gắng khênh một người lính bị thương đặt lên cáng đem vô pḥng.

 

Tôi cúi xuống nh́n người bị thương. Đó là một người lính Thượng. Anh ta hăy c̣n tỉnh, nằm giương cặp mắt mệt mỏi nh́n tồi. Ở phần bụng có băng một băng cá nhân lớn. Vết máu trên miếng băng đă khô. Cô Phúc nhanh nhẹn lấy kéo cắt giải băng. Tôi lật băng lên, hai vết thương nhỏ, một ở gần rốn, một ở sườn phải. Tôi ấn nhẹ tay xuống thành bụng. Bụng hơi cứng. Bệnh nhân nhăn mặt rên nhỏ:

– Đau lắm bác sĩ à. Mảnh đạn chắc đă xuyên vào bụng.

 

Tôi hỏi:

– Anh bị thương lúc nào?

– Hồi hai giờ đêm qua.

– Ḿn hay lựu đạn?

– Em không biết, chắc mảnh B40.

 

Tôi khám nhanh người bệnh. Hai bên phổi thở đều. Vết thương ở bên sườn chắc chỉ sượt bên ngoài, chưa xuyên vào phổi, bệnh nhân thở không khó khăn. Các vùng khác không có ǵ, ngoài cánh tay trái bị trầy sơ. Tôi nói với cô Phúc:

– Cô cho chuyền một chai Ringer’s, thuốc chích ngừa phong đ̣n gánh, cho phân loại máu, đo Hematocrit, chụp QuangTuyến bụng thẳng và nghiêng, chụp phổi, rồi chuyển lên Pḥng Mổ ngay cho tôi.

 

Bây giờ là 10 giờ kém 15 phút. Tôi vừa nói vừa ghi nhanh vào tờ bệnh nghiệm. Kư thêm năm sáu phiếu thử nghiệm và phiếu thuốc do cô Phúc đưa cho tôi. Sau đó tôi đi lên pḥng mổ.

 

Đó là một dăy nhà tiền chế, nằm chận ngang khu Nội Khoa, thành h́nh chữ T. Nền nhà cao hơn mặt đường 40 phân. Nhà lợp tôle có trần bằng carton, được chia làm ba phần. Phần đầu làm Pḥng Quang Tuyến, phần giữa Pḥng Mổ và phần cuối Pḥng Hậu Giải Phẫu. Muốn đi qua Pḥng Mổ, phải qua Pḥng Hậu Giải Phẫu. Tôi đẩy cánh cửa xanh màu lá cây quê mùa bước vào pḥng mổ, miệng kêu:

– Mổ bụng, mổ bụng!

 

Cồ Th́n, cô Lâm, anh X̣m đang ngồi nói chuyện bên chiếc cáng có bánh xe đẩy gần máy lạnh quay ra. Cô Lâm nhăn mặt nói:

– Trời ơi, lại mổ bụng nữa!

– Đừng than, sẽ c̣n nhiều. Bây giờ cô sửa soạn mang bộ Major set ra. Cô Th́n kêu chị Huyên đi mời cô Đào, cô Bích lên đây, anh X̣m lo sửa soạn máy gây mê đi.

 

Có tiếng động mạnh ở cửa pḥng mổ, tôi mở rộng cửa để người y công đẩy xe chuyển bệnh nhân vào. Tôi giúp mọi người khênh bệnh nhân sang bàn mổ. Quay sang anh X̣m tôi nói:

– Anh nhớ đặt ống thông tiểu sau khi đo áp huyết xem có máu trong nước tiểu không.

 

Tôi đi vào nơi rửa tay để thay áo, mang mask và mũ. Chỗ rửa tay là một phần pḥng mổ lấn sang Pḥng QuangTuyến, dài 3 thước và rộng 1 thước rưỡi. Ở đó có hai chậu rửa làm theo đúng quy cách của một pḥng giải phẫu nhưng không có nước. Người ta phải để một sô lớn và ba sô nhỏ đựng nước. Dọc sát vách tường, có hai kệ lớn đựng dụng cụ y khoa như băng bột, bông, chỉ may và những dụng cụ hư hỏng. Rửa tay bằng bàn chải chà thuốc Phisohex. Có một y công đứng cạnh dùng lon xối nước cho mọi người rửa tay.

 

Ở đây không có nước máy chạy liên tục. Nước do công ty Công Chánh cung cấp mỗi ngày hai giờ. Hứng nhỏ giọt chưa được mộ thùng phuy. Những ngày mổ nhiều có khi hết nước rửa tay, phải đi xin các trại khác. T́nh trạng khan hiếm nước như vậy đă có từ lâu, có thể từ ngày thành lập bệnh viện. Tới giờ vẫn chưa có sự sửa sang cải tổ hữu hiệu nào.

 

Nói cho ngay, đàng sau bệnh viện đă có xây xong một bồn nước cao, nhưng không có máy bơm nước lên v́ giếng ở trên đồi, làm ǵ có nước và chuyện này dường như chẳng ai để ư tới nữa.

 

Tôi nghe thấy tiếng cười của cô Đào ở ngoài pḥng, vội bước ra. Cô là nữ Hộ Sinh Trưởng của bệnh viện, kiêm chuyên viên gây mê, năm nay chừng 28 tuổi. Cô là người dễ mến. Cô làm việc chăm chỉ và tận tâm. Cô có một đứa con trai mới được 8 tháng rất kháu khỉnh, ai hỏi ǵ cũng cười. Trông thấy tôi, cô hỏi:

– Mổ bụng hả bác sĩ?

 

Tôi gật đầu:

– Cô cho bệnh nhân ngủ đi. À anh Sáu, nước tiểu ra sao, huyết áp bao nhiêu?

– Thưa bác sĩ, nước tiểu trong ạ.

 

Anh Sáu X̣m vừa nói vừa đổ ether vào máy thuốc mê vừa nói:

– Tension 10 trên 7, mạch 96.

– Tốt! Chúng ta bắt tay vào việc là vừa.

 

Trong số các nhân viên pḥng mổ, tôi thích nhất anh Sáu X̣m. Anh quê ở Sa Đéc, không hiểu sao lại lưu lạc tới tận vùng đất đỏ này. Anh ăn nói lễ phép, hiền lành, chịu khó làm việc, chịu khó học hỏi. Anh có bằng CC1 pḥng mổ, nhưng hiện giờ anh có thể đảm nhiệm việc gây mê một cách hoàn hảo, mặc dù anh không được gửi đi học khóa nào.

 

Chính cô Đào đă truyền nghề cho anh. Cho tới nay, anh đă gây mê được gần 100 trường hợp với kết quả tốt đẹp, không có ǵ trục trặc xảy ra. Có anh, cô Đào đỡ được một phần gánh nặng. Trong suốt hai tháng cô Đào nghỉ phép đi sanh, anh đă giúp tôi gây mê nhiều trường hợp. Nếu không có anh, tôi thực là bối rối, v́ không ai gây mê cho bệnh nhân cho tôi mổ. Từ xưa đến giờ cô Đào là chuyên viên gây mê độc nhất ở đây.

 

Tôi c̣n nhớ, có một lần chính tôi phải vừa gây mê, vừa mổ v́ cô Đào đi công tác vắng. Một buổi tối, một đứa nhỏ bị nhân dân tự vệ bắn bị thương ở bụng, cần mổ gấp mà không có chuyên viên gây mê. Tôi phải gồng ḿnh cho nó ngủ một cách khó khăn, v́ nó đă ăn rồi, bị sặc và ói mửa, nhưng rốt cuộc nó cũng ngủ yên. Tôi liền giao cho môt y tá giữ máy, và dặn xem chừng huyết áp, mạch và nhịp thở, rồi tôi hối hả đi rửa tay, mặc áo mổ thật lẹ. Cũng may thằng bé chỉ bị một vết thương nhỏ ở gan, chừng ba phân. Tôi khâu lại bằng hai mũi Catgut chronic để cầm máu. Kiểm soát các cơ quan trong bụng, thấy không c̣n vết thương nào nữa, tôi vội vă khâu đóng bụng lại. Cuộc giải phẫu kết thúc mau lẹ, chưa đầy một giờ đă xong. Tuần sau đứa nhỏ xuất viện mạnh khỏe. Thật là may mắn cho cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân.

 

Rút kinh nghiệm lần đó, tôi đă đề nghị với bác sĩ Giám đốc cho anh X̣m được tập sự gây mê với cô Đào. V́ anh X̣m là chuyên viên Pḥng Mổ lại có thiện chí học hỏi, nên chẳng bao lâu, anh X̣m đă có thể gây mê một ḿnh được.

 

Sau này bệnh viện có thêm một chuyên viên gây mê mới đi học CC1 về, là Binh nhất Thiện. Thành ra kể cả anh X̣m, bệnh viện có cả thảy ba chuyên viên gây mê. Chắc chắn tôi sẽ không c̣n gặp cái cảnh này vừa gây mê, vừa mổ nữa.

 

Tôi nh́n quanh không thấy cô Bích. Tôi hỏi cô Lâm:

– Cô Bích đâu, chưa tới à, cô Lâm?

– Thưa quan Đốc, nhà cháu đây ạ.

 

Cô Bích mở cửa bước vào, nhái giọng Bắc Kỳ trả lời tôi, làm mọi người cười vui vẻ. Cô Bích cũng cười khoe hàm răng trắng đều và đẹp. Cô là Cán Sự Điều Dưỡng. Nghe nói quê của cô ở Long An, gần Sài G̣n, cùng lớp với cô Bông. Sau khi tốt nghiệp cán sự y tế, hai cô chọn nơi đây làm việc. Trước đây cô là Y tá Trưởng pḥng mổ. Cô phụ mổ hơn một năm nay nên công việc rất thành thạo. Cô mới được cử qua làm Điều Dưỡng Trưởng trại Nội Khoa Nam. Điều Dưỡng Trưởng Pḥng Mổ hiện thời là cô Nga, đang nghỉ phép nên tôi phải mời cô Bích tới phụ mổ.

 

Cô Bích và cô Bông, Điều Dưỡng Trưởng của bệnh viện ở chung với nhau tại một pḥng trong khu Ngoại Khoa, nên lúc nào cần, hầu như các cô đều có mặt. Cô Bích làm việc hăng hái lắm, nhưng có từng cơn. Cô vui giận bất thường nên làm việc với cô phải tế nhị mới được. Hiện tượng này chỉ có gần đây thồi. Chứ trước kia cô vui vẻ yêu đời lắm. Những ngày đầu tôi làm việc ở đây, tôi thấy bác sĩ giám đốc bệnh viện đi thả bộ cùng cô ở sân bệnh viện, nói cười thân mật vui vẻ lắm. Nhưng sau khi bác sĩ lập gia đ́nh rồi th́ thấy tánh t́nh cô hơi đổi khác, nhưng phải tinh ư lắm mới nhận biết được. Có thể v́ tính cô hồn nhiên hay cười nói nên khó nhận ra. Chỉ khi làm chung với cô mới biết được thôi.

 

Vài tháng sau, tôi thấy có một Trung úy Dù tới thăm cô tại bệnh viện. Tôi cũng mừng cho cô đă t́m được người bạn mới. Có một lần tôi thấy cô ngồi đan áo. Tôi hỏi:

– Cô đan áo cho ai vậy?

 

Cô cười cười không trả lời, bà Khánh đứng cạnh nhanh nhẩu đáp thế:

– Chắc đan áo cho bồ chứ c̣n ai nữa.

 

Cô Bích vẫn cười cười không công nhận mà cũng không chối bỏ. Tôi đoán ṃ, hỏi:

– Chắc chàng Trung úy Dù đẹp trai, to khỏe hôm trước phải khồng?

 

Cô Bích ỡm ờ trả lời:

– Có thể lắm. Anh ấy cũng to cỡ bác sĩ. À nhờ bác sĩ đứng thẳng để tôi ướm thử xem cái vai nó có vừa không.

 

Tôi cau mặt nói:

– Cái cô này lạ nhỉ. Tại sao không đo ngay trên người anh ta, mà lại lấy tôi làm người mẫu.

 

Cồ Bích năn nỉ:

– Thôi mà, xin bác sĩ làm ơn làm phước giùm một chút, có mất mát ǵ đâu.

 

Tôi làm bộ giận nói:

– Bộ cô tưởng tôi là phường giá áo túi cơm sao mà đo với ướm áo.

 

Cô biết tôi nói chơi nên cười ngặt nghẽo:

– Đâu ai dám nói bác sĩ như vậy đâu. Nhờ bác sĩ một chút thôi, tôi muốn làm món quà tặng bất ngờ mà, lại sợ áo không được vừa nên mới mạo muội như vậy. Tôi năn nỉ.

 

Bà Khánh đứng bên cũng nói vô:

– Bác sĩ thử cho cô ấy đo xem sao.

 

Thực ra tôi thấy cô có ư nghĩ lạ. Nên muốn làm khó chơi một lúc xem sao chứ đo th́ đo đâu có nhằm nḥ ǵ. Tôi đứng lên cho cô Bích ướm thử bề ngang cái vai. Cô nói:

– May quá, nếu không thử th́ hư mất rồi. Áo sẽ bị chật. Cám ơn bác sĩ.

– Cô cảm ơn bằng ǵ? – Tôi hỏi cắc cớ.

– Một nồi cà ri gà.

– Cũng được.

 

Một tuần sau vào một buổi trưa nhàn rỗi, mọi người đang ngồi nói chuyện ở pḥng Hậu Giải phẫu. Cô Bích mang một gói đồ tới, nói:

– Tôi lại phiền bác sĩ một lần nữa. Áo đă đan xong rồi, nhờ bác sĩ thử xem có vừa không.

 

Tôi nghĩ thế này th́ quá lắm. Tôi tưởng cô nhờ một lần rồi thôi. Ai đời đi đan áo cho bồ mà lại cứ bắt tôi thử. Tôi không nói ǵ, đứng dậy cầm lấy cái áo lên mang vào pḥng mặc thử. Thấy vừa in, màu xám rất nhă. Tôi ra ngoài nói với cô Bích:

– Áo vừa quá cô ạ. Mặc vào đẹp lắm.

 

Rồi tôi cứ thản nhiên ngồi nói chuyện như chẳng có ǵ xảy ra cả. Cô Bích nóng ruột nói:

– Bác sĩ cởi áo ra trả lại chứ, thử thôi mà.

 

Tôi nói ngang một cách rất nghiêm trang, cù không cười:

– Áo này rất vừa và rất đẹp, không thể nào cởi được.

 

Cô Bích năn nỉ:

– Tội nghiệp mà bác sĩ. Trả áo cho tôi đi. Mai mốt tôi sẽ đan cho bác sĩ một cái áo khác.

 

Tôi nghe trong giọng nói của cô chẳng có ǵ thực sự muốn đ̣i lại cái áo cả. Có thể là do chủ quan chăng? Bà Khánh, chị Huyền, cô Lâm, cô Th́n chỉ ngồi cười, mặc cho cô Bích năn nỉ. Có thể họ cũng cùng một ư nghĩ như tôi. Tôi nói:

– Để cho công bằng tôi sẽ về Sài G̣n mua mấy cuộn len để đền lại cô. C̣n cái áo này nó dính chặt vào người tôi rồi không cởi ra được nữa. Cảm ơn cô nhiều lắm.

 

Tôi vừa nói vừa cười, đứng dậy tỉnh bơ đi về pḥng.

 

Mấy ngày sau, mỗi lần gặp tôi cô đều đ̣i áo, nhưng đời nào tôi trả. Cô không giận mà h́nh như lại c̣n thân hơn trước. Cô nói tôi ĺ quá chứ ai ĺ như

vậy.

 

Cô Đào đă cho bệnh nhân ngủ yên. Cô Lâm đă rửa sạch vùng sắp mổ. Mọi người đều đă sửa soạn xong. Tôi vào pḥng rửa tay. Vài phút sau tôi bước ra, cô Th́n đă cầm một chiếc áo mổ màu xanh xám đợi sẵn, giúp tôi mặc vào, đeo găng tay xong, tôi cùng với cô Bích trải khăn mổ phủ lên người bệnh trong khi cô Th́n lo sửa soạn dụng cụ.

 

Tôi cầm con dao mổ hỏi cô Đào:

– Mổ được chưa cô?

– Dạ được. – Cô Đào nhanh nhẩu trả lời.

 

Tôi ấn mạnh lưỡi dao xuống lằn da bụng. Thẳng một đường từ cuối chấn thủy xuống, ṿng qua phía trái của rốn tới gần xương mu. Màu đỏ dợm chảy theo vết cắt. Mỗi lần cầm dao mổ tôi lại có cảm giác sung sướng như đă đạt được một cái ǵ.

 

Hồi tôi mới vào trường Y Khoa, thấy các thầy và các bậc đàn anh, tay thoăn thoắt con dao cái kéo làm việc, ánh mắt đầy vẻ tự tin, khi th́ nghiêm trang khi th́ bông đùa, tôi lấy làm phục lắm. Tôi ước mơ một ngày nào đó tôi sẽ được như vậy. Chính v́ thế nên dù biết nghề giải phẫu vất vả, tôi vẫn theo học. Một phần nữa, tôi thấy giải phẫu cho ngay kết quả trước mắt. Có nhiều bạn bên Nội Khoa bó tay phải nhờ tới thủ thuật của nhà giải phẫu mới chữa được.

 

Đôi khi, tôi c̣n cảm thấy giải phẫu làm chơi mà được việc. Chỉ cần bỏ ra một chút thời gian ngồi khâu lại một động mạch bị đứt có thể cứu được cả một cẳng chân, một cánh tay tránh khỏi bị cưa cắt. Đó là một trường hợp mới xảy ra hai tháng trước. Tôi được nghỉ phép về thăm nhà, tính ra ngày hôm sau mới phải về lại bệnh viện nhưng có xe người bạn đi về nên theo lên sớm hơn một ngày. Không ngờ vừa lên đến nơi th́ có một người bị thương đứt động mạch đùi do mảnh lựu đạn. Tôi liền vào bệnh viện mổ ngay nối lại động mạch nên chân người lính khỏi bị nguy hiểm v́ phương tiện tản thương ban đêm không có, để chậm th́ có thể chân bị cưa. Những kết quả nhỏ nhoi ấy thực không đáng kể nhưng ít ra nó cũng làm cho tôi vui và xoa dịu được phần nào mặc cảm tự ti khi đọc thấy những tiến bộ lớn lao của y khoa thế giới.

 

Trong khi ở các nước tiên tiến, y khoa đang đào sâu tới tận phân tử của các hóa chất, nhằm giải đáp những nguyên nhân bệnh để đi t́m những phương thuốc hữu hiệu và hợp lư để trị bệnh th́ y khoa của nước nhà vẫn c̣n phôi thai chưa vượt được mức chặn tế bào. Tuy nhiên mục đích tối hậu của y khoa cũng chỉ là để cứu sống người bệnh. Ngay tại tỉnh nhỏ này, có rất nhiều thiếu thốn.

 

Tôi đang làm điều đó với nhiều nhiệt tâm. Tôi đă cứu sống nhiều người bệnh. Tôi rất vui và nghĩ rằng mặc dù ḿnh không có những phát minh cao siêu, những kỹ thuật tân kỳ nhưng mục đích tối hậu đă đạt được. Tôi cũng đỡ mặc cảm nhiều lắm.

 

Tâm trí tôi lúc nào cũng mong muốn phát minh ra một cái ǵ độc đáo. Chính v́ vậy khi tôi c̣n là Y Sĩ Trưởng Trung Đoàn 43, một vấn đề nan giải lúc bấy giờ là lở loét bàn chân của đa số binh lính đi hành quân trong mùa mưa. Hồi đó, giày của Bộ Binh đều là giầy vải. Bị ngâm nước trong bùn suốt ngày, da chân mềm ra, lại thêm bị cọ sát với thành giầy khi di chuyển nên da chân bị tróc, gây nên lở loét, đau đớn. Binh sĩ không thể nào tiếp tục cuộc hành quân được.

 

Trong mùa mưa, nhiều đơn vị có số binh sĩ bất khiển dụng v́ lở loét chân lên tới già nửa. Tinh thần binh sĩ xuống, có nhiều trường hợp tự hủy hoại thân thể để khỏi phải đi hành quân như tự bắn vào chân vào tay, vào bụng do chính mắt tôi thấy để hy vọng được tản thương về hậu cứ hoặc xuất ngũ.

 

Để chữa trị chứng lở loét đó, Quân Y thường lấy thuốc đỏ tức là Mercurochrome thoa lên chỗ vết lở. Nếu làm độc th́ cho thêm thuốc trụ sinh. Phương pháp đó hoàn toàn không hữu hiệu, lại làm tăng thêm sự đau đớn của bệnh nhân. Nhiều trường hợp sau khi thuốc thoa thuốc đỏ lên, chân c̣n bị phản ứng sưng vù thêm, không thể di chuyển được.

 

Tôi nghĩ cần phải kiếm ra một phương thuốc công hiệu nhanh chóng. Chỉ cần một hai giờ hay cùng quá qua đêm là phải dứt điểm sự đau đớn lở loét chân, đồng thời phải giản dị và rẻ tiền để có thể áp dụng cho hàng loạt mấy trăm người một lúc.

 

Tôi đă nghĩ được phương thuốc đó, đă thí nghiệm thành công cho các binh sĩ của bốn Tiểu Đoàn Bộ Binh của Trung Đoàn 43. Các sĩ quan Trợ Y báo cáo về cho tôi biết thuốc công hiệu, binh sĩ rất thích thuốc thứ này. Hành quân trong mùa mưa, khi dừng chân hay nghỉ qua đêm, những người lính được lệnh tháo giày thoa thuốc, để khô chừng 20 phút rồi lấy vớ khô đi vào. Từ đó quân số bất khiển dụng do đau lở bàn chân giảm rất nhiều. Phương thuốc này vừa chữa trị, vừa pḥng ngừa được chứng lở loét bàn chân rất hữu hiệu khi phối hợp với vệ sinh bàn chân.

 

Đó chính là dung dịch nitrate bạc 0.5 % (Silver Nitrate solution 0.5 %.) với hai đặc tính rất cần thiết để trị chứng lở loét bàn chân: sát trùng và khô da (astringent).

 

Từ Trung Đoàn tôi đă điện thoại với Y Sĩ Thiếu tá Phạm Hữu Hảo, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 18 Quân Y để tŕnh bày về phương thuốc mới này và đă được sự đồng ư của anh Hảo. Anh đă ra lệnh cho các dược sĩ của Tiểu Đoàn 18 Quân Y pha chế dung dịch Nitrate bạc đem phân phát cho các binh sĩ. Thí nghiệm này ít người biết v́ chưa được công bố ra nhưng những kết quả sơ khởi đó làm tôi rất hài ḷng.

 

Sau khi dùng kẹp cầm máu xong, tôi dùng kéo mổ bụng. Ruột ph́nh lên, máu bầm tràn ra thành bụng. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho biết chắc chắn 100 phần trăm có vết thương trong bụng và cũng đă xác sự định bệnh đă đúng. Bây giờ chỉ cần đi kiếm xem vết thương ở đâu để dùng thủ thuật giải phẫu chữa trị. Tôi lấy khăn thấm máu. Kêu cô Lâm mở máy hút. Sau khi hút hết máu bầm, tôi khỏi sự khám ruột non. Tôi thấy một khúc ruột dài chừng 30 phân bị thủng tới mười mấy lỗ. Tôi quyết định cắt đi rồi nối hai đầu lại.

 

Đúng lúc tôi khâu xong mũi chỉ đầu tiên, đèn pḥng mổ lu dần rồi cả pḥng ch́m trong bóng tối. Tôi thở dài, mặc dù đă quá quen với cảnh này tôi cũng muốn văng tục. Từ gần một năm nay, máy điện bị trục trặc hoài, sửa không hết. Đèn lúc sáng lúc tối. Đă hơn một lần tôi phải mổ dưới ánh đèn pin, ḿnh mẩy ướt đẫm mồ hôi v́ nóng. Cả toán mổ ai nấy đều phải choàng khăn kín thân ḿnh từ đầu tới chân chi để hở đôi mắt. Chân phải đi đôi giày cao su tới đầu gối để tránh nước rửa vết thương lẫn máu thấm vào người. Quanh bụng c̣n phải quấn một mảnh nylon, bởi vậy khi không có đèn điện, pḥng mổ không có máy lạnh th́ chúng tôi khổ sở đến chừng nào. Anh X̣m cười nói:

– Ban ánh sáng sửa soạn làm việc.

 

Hiểu ư, cô Lâm và Thượng sĩ Lư, mỗi người lấy một cái đèn pin để sẵn trong tủ thuốc soi cho tôi tiếp tục làm việc.

 

Nắng tháng Tư đổ xuống mái tôn làm cho căn pḥng mổ kín mít này ngột ngạt vô cùng. Mồ hôi từ trán chạy xuống mắt tôi cay xè. Cô Lâm thỉnh thoảng lại phải lấy khăn lau sạch mồ hôi trên mặt tôi v́ sợ để rơi xuống vùng đang mổ gây nhiễm trùng. Cũng may, chúng tôi không phải chịu cực h́nh đó lâu hơn nữa. Khi tôi vừa nối xong hai đầu ruột, tôi thấy tiếng máy điện chạy rồi đèn pḥng mổ bật sáng và tiếng máy lạnh bắt đầu. Mọi người đều reo vui mừng. Tôi thở ra nh́n cô Đào nói:

– Thoát nạn.

 

Cô Đào không nói ǵ chỉ nhe răng cười, tay cầm mảnh băng chùi vội những giọt mồ hôi trên trán.

 

Tôi vá thêm hai lỗ thủng ở ruột non. Sau đó tôi khởi sự khám các cơ quan khác, thấy tất cả đều b́nh thường không c̣n một vết thương nào nữa, liền sửa soạn khâu bụng lại. Khi tôi đang khâu da, Thiếu úy Thu đứng ở ngoài cửa Pḥng Mổ ló đầu vào nói:

– Thưa bác sĩ, tôi đă đọc nhật lệnh cho các anh em. Chia họ làm ba toán cứu thương, thay phiên nhau làm việc. Ban đêm 50 phần trăm quân số ở lại bệnh viện và 50 phần trăm về canh gác trại gia binh.

 

Tôi gật đầu hài ḷng:

– Ông lo kiểm soát anh em, có ǵ báo cáo cho tôi ngay.

 

Mổ xong tôi ra Pḥng Hồi Sức lấy tờ bệnh nghiệm cho thuốc và ghi các phương thức săn sóc hậu giải phẫu. Sau đó tôi viết nghi thức giải phẫu vào cuốn sổ. Khi tôi ra khỏi nhà thương đi bộ về nhà, nh́n đồng hồ chỉ đúng 12 giờ 30 phút.

 

Bệnh nhân mổ vừa rồi là người đầu tiên trong tổng số các vụ mổ tại chiến trường AnLộc. Cũng như ông già Long là người đầu tiên đă nằm xuống vĩnh viễn v́ trái hỏa tiễn phục kích mở màn trận đánh. Đó là ngày 5 tháng 4 1972.

 

(Mời đọc tiếp Phần 2: Căn nhà dưới gốc cây đa) 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính